Cần trả lại sự thật cho
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Source:
https://chauxuannguyen2019.org
Mail forwarded by
Thanh Nguyen
T.......@gmail.com
Cần trả lại sự thật cho tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Sau 30/4/1975 Mỹ mở chiến dịch đổ tội làm mất nước cho Tổng Thống Thiệu để cho người ta không oán hận Mỹ đă bỏ rơi VNCH. Giờ đây đă 44 năm trôi qua, nếu người Mỹ không lên tiếng giải oan cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, th́ cũng nên trả lại sự thật cho lịch sử.
Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu cho tới trước khi chết Ông vẫn cúi đầu nhận chịu trách nhiệm đă
làm cho mất nước, một lỗi lầm quá to lớn mà cá nhân một người không thể nào gánh
vác. Nếu có một người nào đó đứng ra nhận chịu th́ quả là vô lư, thế nhưng Ông
Nguyễn Văn Thiệu đă làm.
Kể từ ngày lập quốc, nước Mỹ thực sự sụp đổ vào năm 1975 với 3 triệu cựu chiến
binh tại chiến trường Việt Nam, 58 ngàn người đă chết, và 3.000 quân nhân c̣n
mất tích. Xă hội Mỹ phân hóa trầm trọng với tranh căi đổ lỗi cho nhau.
Chính v́ vậy mà những người quân nhân VNCH không bao giờ động chạm tới nỗi đau
của người bạn chiến đấu Mỹ, họ đă làm hết sức của họ rồi, họ đă phải chết tới
58.000 người và đă hao tốn 300 tỉ USD, lại c̣n phải nuôi 3 triệu cựu chiến binh
Mỹ mà người nào cuộc đời cũng tan nát do bị khủng hoảng, bị thất bại v́ không
thể trở lại trường để làm lại cuộc đời.
Hai chữ “Bỏ Rơi” là do BBC và RFI dùng để xoa dịu sự oán hận của người Việt sau
khi Mỹ cắt ông tiếp huyết cho VNCH. “Bỏ Rơi Đồng Minh” khác với “Phản Bội Đồng
Minh”. Bỏ Rơi có nghĩa là tôi thích th́ tôi giúp, khi thấy mệt mơi quá th́ tôi
không giúp nữa. C̣n Phản Bội là phỉnh gạt, lừa đảo. Cho nên người Mỹ muốn nhận
là họ Bỏ Rơi VNCH c̣n hơn là nhận Phản Bội VNCH.
Năm 1968 anh sinh viên Frank Snepp quyết định làm đơn xin đầu quân vào CIA để
tránh khỏi phải đi lính và chiến đấu tại VN. Năm 1969 Snepp bắt đầu làm viêc tại
chi nhánh CIA tại Sài G̣n trong tư thế một nhân viên mới vào nghề. Năm 1971 ông
trở về Trung tâm CIA tại Mỹ với nhiệm vụ phân tích những tin tức thu thập từ báo
chí của Bắc Việt.
Đến năm 1972
ông bị đày đi VN v́ tội đă báo trực tiếp cho Ṭa Bạch Ốc một thông tin ông đọc
được trên báo của Hà Nội mà không qua các xếp lớn của CIA. Nhiệm vụ lần thứ hai
của Frank Snepp tại Việt Nam là đọc báo và nghe đài phát thanh của CSVN và VNCH
để tŕnh cho Polgar, trưởng CIA tại Sài G̣n, những tin nào mà ông ta thấy đáng
quan tâm.
Sau biến cố 1975 Frank Snepp quyết định viết thành sách về những ǵ ông chứng
kiến trong vai tṛ một nhân viên CIA làm việc tại VN trong giai đoạn Hoa Kỳ cuốn
cờ ra khỏi Việt Nam. Nhờ đó ông nhanh chóng trở thành nhân chứng sống duy nhất
dám tiết lộ những bí mật mà một nhân viên CIA không được phép tiết lộ.
CIA đă đưa ông ra ṭa v́ ông đă hành động trái với lời tuyên thệ khi ông bước
chân vào tổ chức CIA. Ṭa án đă phán quyết Frank Snepp không bị tội tiết lộ bí
mật nghiệp vụ nhưng cũng quyết định cho thu hồi quyển sách “Decent Interval” của
Frank Snepp. Tuy nhiên phán quyết này chỉ có hiệu lực h́nh thức bởi v́ cả thế
giới đều đă đọc Decent Interval..
Theo Frank Snepp th́ mọi chuyện đều bắt đầu từ khi kư kết Hiệp Định Paris. Rồi 3
tháng sau khi kư kết Hiệp Định, Tổng Thống Nixon cử Martin làm đại sứ Mỹ tại VN
thay Bunker. Frank Snepp mô tả vai tṛ của Đại sứ Martin: “Mỹ buộc phải bỏ khỏi
Việt Nam trong tư thế đường hoàng, và muốn tạo được ấn tượng như vậy th́ cần
phải có một chuyên gia về ảo thuật và kịch nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư phụ.
(Trang 75, nguyên văn: “The United States was obliged to crawl out of Vietnam
standing up, and to foster that illusion required the kind of conjuring and
stagecraft at which Martin so adept”). Như vậy màn kịch bỏ rơi Việt Nam đă được
lên giàn từ tháng 4 năm 1973.
Năm 1974 giữa năm, Tổng Thống Mỹ Nixon đệ tŕnh Quốc Hội Mỹ bản dự thảo hiệp ước
giao thương giữa Mỹ và Liên Xô. Đến lúc này Quốc Hội Mỹ mới biết rằng đây là cái
giá mà Nixon đă trả cho việc Liên Xô ngưng cung cấp vũ khí cho Hà Nội và ép Hà
Nội phải kư hiệp ước ngưng bắn 1973. Dĩ nhiên khi đưa ra trước Quốc hội, Nixon
tin rằng sẽ được thông qua dễ dàng v́ lợi ích chung của cả hai nước, nhất là
từng bước giải quyết chiến tranh lạnh là điều mà dân chúng Hoa Kỳ mong chờ.
Tuy nhiên ông đă tính lầm, Quốc Hội Mỹ đoán rằng c̣n nhiều cái giá khác nữa giữa
Nixon và Liên Xô, Trung Quốc, Hà Nội vào năm 1972. V́ vậy Quốc Hội bác bỏ thẳng
thừng hiệp ước thương mại Xô – Mỹ để buộc Nixon phải ḷi ra những thỏa thuận
khác. Dĩ nhiên là Nixon không đưa ra, ông dùng đặc quyền hành pháp để từ chối.
V́ vậy Quốc Hội có một cách khác để moi ra những ǵ mà Nixon đă cam kết với LX,
TQ và Hà Nội vào năm 1972; đó là cách lợi dụng vụ Watergate để triệu tập một Ủy
ban điều tra đặc biệt về sai phạm của Nixon trong vụ nghe lén, nhờ đó công tố
viên của ủy ban điều tra có quyền bắt Nixon phải đưa ra tất cả những cam kết
ngầm với Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và cả Hà Nội.
Nixon chỉ c̣n có cách từ chức để né tránh Ủy ban điều tra bởi v́ ông và
Kissinger đă có những thỏa thuận mật với đối phương mà không xin phép Quốc Hội.
Một khi ông từ chức th́ những cam kết của ông trở thành vô hiệu lực. Quốc Hội sẽ
không c̣n cớ để truy xét.
Sau khi Nixon từ chức th́ Quốc Hội Hoa Kỳ cho thông qua đạo luật cấm HK buôn bán
với các nước Cộng Sản vào cuối năm 1974 (Đạo luật Jackson-Vanik). Sự trở mặt của
Quốc Hội Mỹ đă khiến Liên Xô tức giận bởi v́ những cam kết của Nixon khi ông ta
viếng thăm Liên xô vào năm 1972 đă không được thi hành. V́ vậy, cuối năm 1974,
Đại Tướng Kulikov của Liên Xô đến Hà Nội để xúi Hà Nội đưa quân đánh chiếm Miền
Nam, Liên Xô sẽ cung cấp vũ khí và chiến phí.
Theo như 7 mục, 23 điều khoản của Hiệp Định Paris th́ Hà Nội ngưng bắn vô điều
kiện, trao trả cho Mỹ 591 tù binh Mỹ vô kiện, trao trả tù binh VNCH để đổi lại
VNCH trao trả 28 ngàn tù binh Bắc Việt. Trong khi đó Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
không phải từ chức, 38 ngàn tù chính trị của mặt trận GPMN vẫn tiếp tục bị giam
giữ.
Đặc biệt là “ngưng chiến da beo”, nghĩa là quân đội CSVN vẫn ở trên rừng và quân
đội VNCH kiểm soát thành thị và thôn quê Nam Việt Nam. Biên giới hai miền Nam
Bắc vẫn được tôn trọng theo như Hiệp Định Geneve 1954.
Nh́n bề mặt của Hiệp Định Paris quá vô lư cho nên giới quan sát quốc tế thừa
biết bên trong phải có một mật ước riêng. Quả nhiên sau này vào năm 1977 Tổng
Thống Jimmy Cater của Mỹ xác nhận có một mật ước riêng đằng sau Hiệp Định Paris
được Nixon kư với Hà Nội 4 ngày sau khi kư kết Hiệp Định Paris 1973. Vào tháng
10 năm 1988 Hà Nội cho công bố toàn văn bản mật ước Nixon & Phạm Văn Đồng.
Theo đó th́ Nixon hứa sẽ viện trợ tái thiết cho Bắc Việt 3,25 tỉ USD và viện trợ
phát triển kinh tế cho Hà Nội 1,5 tỉ USD. Trong ṿng 30 ngày sau khi người tù
binh HK cuối cùng rời khỏi VN th́ hai bên sẽ thiết lập xong hệ thống viện trợ
tái thiết, và trong ṿng 60 ngày sau đó th́ lập xong hệ thống viện trợ phát
triển kinh tế.
Bản mật ước do đích thân Kissinger mang tới Hà Nội cho Phạm Văn Đồng kư nhận. Từ
đó Lê Duẩn ngày đêm trông chờ món tiền của Kissinger và đến cuối năm 1974, Liên
Xô cử tướng Kulikov sang Hà Nội xúi Lê Duẩn đánh chiếm Miền Nam th́ có nghĩa là
Hiệp Định Paris coi như tờ giấy lộn. Rốt cuộc Hà Nội biếu không 591 tù binh Hoa
Kỳ mà chẳng nhận được đồng nào, suốt 10 năm chiến đấu gian khổ, hằng triệu người
chết, hằng chục tỉ đô la nợ chiến phí… đến nay chỉ c̣n là con số không (sic).
Tướng Kulikov xúi Hà Nội phát động chiến tranh trở lại nhưng Lê Duẩn và tập đoàn
lănh đạo CSVN thực sự trắng mắt. Dân chúng Miền Bắc đă kiệt sức, trong 5 năm nhà
nước đă đóng cửa tất cả 18 trường đại học và cao đẳng, ḅn vét nhân lực đến độ
phải gọi lính ở tuổi 16, tại Miền Bắc chỉ c̣n một trời đàn bà góa… th́ lấy đâu
để gây chiến tranh trở lại.
*(Theo hồi kư của tướng CSVN Hoàng Văn Thái th́ cho tới năm 1974 Hà Nội đă động
viên đến 16% dân số, không thể nào động viên thêm được nữa. Trong khi Miền Nam
là 5,88%)
Bắt đầu từ năm 1975 Đại Tướng Cao Văn Viên viết tường tŕnh cho Ngũ Giác Đài về
những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam nhưng đến năm 1983 mới được in
thành sách với tựa đề “The Final Collapse” và hai mươi năm sau, 2003 The Final
Collapse được nhà nghiên cứu sử Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt với tựa đề
“Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Ḥa”. Trong sách có kèm theo những chú giải
mới nhất của Đại Tướng Cao Văn Viên. “Một sự thực không thể chối căi là quân đội
VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975…” (Tài liệu của Ngũ Giác Đài:
Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 136).
Năm 1974 tháng Giêng, theo tài liệu của CIA: “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu
tháng Giêng 1974 Tướng John Murray và ban tham mưu của ông đă làm việc ngày đêm
để cố gắng t́m đáp số cho bài toán viện trợ quân sự. Nhưng mỗi lần họ t́m ra một
giải pháp để giải quyết vấn đề th́ lại phát sinh một vấn đề khác mà kết quả cũng
chỉ đưa tới bí lối” (Frank Snepp, Decent Interval, trang 95).
Tướng John Murray là Tư Lệnh cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam..
Ông đến Việt Nam sau Hiệp Định Paris 1973, sang đầu năm 1974 ông và Bộ Tham Mưu
Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tính toán sổ sách về viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam
trong nửa cuối 1974 và đầu năm 1975. Tuy nhiên Ngũ Giác Đài đă cho ông biết
trước là có thể dưới 700 triệu đô la nhưng theo các chuyên viên tham mưu của
John Murray th́ 700 triệu chỉ đủ giữ được Vùng 4.
Năm 1974 cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8 John Murray họp buổi họp chót với Đại
Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng), Tướng Đồng Văn Khuyên (Tổng Cục
Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận) và một số tướng lănh của Bộ TTM. John Murray khuyên
Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2
và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên đều nói
rằng lên kế hoạch về quân sự th́ được, nhưng về mặt chính trị th́ không thể nào
thi hành nổi”. Sau buổi họp này th́ John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
Năm 1974 tháng 5, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch của VNCH)
th́ ông đă t́nh cờ trông thấy bản kế hoạch “Cắt Đất Theo Lượng Viện Trợ” của
Murray nằm trên bàn của Tổng Thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974, nghĩa là 2 tháng
trước khi Nixon từ chức. Như vậy Murray chính là tác giả của kế hoạch bỏ Vùng 1,
Vùng 2 vào năm 1975, một kế hoạch mà cho tới 40 năm sau người ta vẫn cho là sáng
kiến (tối kiến) của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sự thực Tổng Thống đă bị báo
chí Mỹ cố t́nh gieo tiếng oan mà lúc đó Ông không thể lên tiếng thanh minh.
Năm 1974, ngày 24-12: Theo hồi kư của Đại Tá Phạm Bá Hoa “Ngày 24-12-1974, lúc
quân CSVN đang tấn công Phước Long sang ngày thứ 10; một buổi tiệc mừng Giáng
Sinh được Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, tổ chức trên
lầu của Câu lạc Bộ trong BTTM”. Khách tham dự gồm có Tướng Smith (Chỉ Huy Trưởng
cơ quan quân sự HK tại VN; Tướng Quân Y Phạm Hà Thanh; Tướng Công Binh Nguyễn
Văn Chức; Đại Tá Phạm Kỳ Loan (Tổng Cục Phó Tiếp Vận); Đại Tá Phạm Bá Hoa (Tham
Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận); Đại Tá Pelosky (Phụ Tá của Tướng Smith); Trung Tá
Nguyễn Đ́nh Bá (Chánh Văn Pḥng của Tướng Khuyên).
Tướng Smith tiết lộ rằng: “Bộ Quốc Pḥng Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân khoản dự
trù hơn 300 triệu đollar để di tản sang Hoa Kỳ khoảng 40 ngàn sĩ quan và gia
đ́nh, nhưng thời gian th́ chưa rơ” (Phạm Bá Hoa, Đôi Ḍng Ghi Nhớ, Bản in lần 4,
trang 264). Khi sách của Phạm Bá Hoa phát hành th́ tất cả các nhân vật trong bữa
tiệc đều c̣n sống mạnh khỏe nhưng không ai phản đối, kể cả Tướng Smith; chứng tỏ
chuyện này hoàn toàn có thật.
Như vậy là kịch bản bỏ rơi Miền Nam đă được lên giàn trước khi mất Phước Long
chứ không phải là sau khi mất Ban Mê Thuột. Người ta đă tính toán sẵn kế hoạch
để cho VNCH sụp đổ trước tháng 6 năm 1975, kể cả ước tính trước ngân sách chi
dụng cho kế hoạch.
Năm 1975, ngày 7-1: Phản ứng của Mỹ sau khi mất Phước Long là: “Nhà Trắng nói
rằng: Tổng Thống Ford không có ư vi phạm những điều cấm chỉ (của Quốc Hội) về
việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam” (Hồi kư của Tướng CSVN Hoàng
Văn Thái, trang 161). Khi vừa nghe tin này Phạm Văn Đồng tuyên bố: “Cho kẹo quân
Mỹ cũng không dám trở lại VN”(trang 146).
Ngay sau khi nhận được tin, Lê Duẩn chỉ thị cho Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng
Hoàng Văn Thái lên kế hoạch tiến chiếm miền Nam: “Một tháng sau chiến thắng
Phước Long, ngày 5 tháng 2, anh Văn Tiến Dũng lên đường vào Tây Nguyên” (Hoàng
Văn Thái, trang 172).
Ngày đó cơ quan USIS của CIA tung tin quân VNCH thua tại Phước Long là do Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu cố t́nh bỏ Phước Long để thử xem phản ứng của Mỹ.
Sở dĩ CIA đổ cho Nguyễn Văn Thiệu
là để Quốc Hội Mỹ có cớ biểu quyết ngưng
viện trợ quân sự
cho VNCH
-Tuần đầu của
tháng 3 năm 1975. Trong một cuộc họp đầu tuần của Bộ Ngoại Giao HK, Kissinger đă
giải thích hành động viện trợ “Lấy Có” cho Cam Bốt: “Chính Phủ Lon Nol đang trên
đà sụp đổ, đây là nguyên do chính khiến chúng ta phải tiếp tục viện trợ để cho
sau này không ai có thể trách chúng ta vô trách nhiệm”. (Frank Snepp, Decent
Interval, trang 175). *(Nguyên văn: “…he say, the Lon Nol Government was on the
brink of collapse, it was essential to keep open the aid pipeline so no one
could later blame the United States for the disaster”).
– Ngày 7-3-1975, Kissinger chỉ thị cho các viên chức Ngoại Giao HK trước khi ông
ta lên đường đi Trung Đông: “Hăy làm mọi cách để Quốc Hội tiếp tục duy tŕ viện
trợ (Lấy Có) cho Cam Bốt và Việt Nam. Không phải để cứu văn hai nước đó, mà v́
không thể nào cứu văn được hai nước đó” (Frank Snepp, Decent Interval trang
176). *(Nguyên Văn: Do every thing possible to ensure that Congress lived up our
aid commitments to Cambodia and Vietnam- not because the two countries were
necessarily salvageable, but precisely because they might not be).
Hai ngày sau khi Kissinger nói câu này th́ Văn Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê
Thuột.
Kissinger không muốn thiên hạ nghĩ rằng Việt Nam sụp đổ do không c̣n viện trợ.
Và với mức độ viện trợ nhỏ giọt th́ đến ngày 30-6-1975 quân đội VNCH sẽ không
c̣n Gạo và không c̣n Đạn (Tài Liệu The Final Collapse của Đại Tướng Cao Văn
Viên). V́ thế Kissinger mong cho Quân đội VNCH tự tan ră trước khi hết Gạo và
Đạn trước tháng Sáu năm 1975. Lúc đó thiên hạ sẽ nghĩ rằng Quân Đội Sài G̣n đă
thua chạy trước sức tiến công vũ băo của quân Hà Nội.
Năm 1975 ngày 11-3, một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột. Theo Đại Tướng Cao Văn
Viên “Ngày 11-3 Tổng Thống Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại
Dinh Độc Lập và sau đó tŕnh bày ư định muốn cắt bỏ bớt lănh thổ cho vừa với mức
viện trợ quân sự của HK vào năm 1975”. Tướng Viên ghi lại cảm nghĩ của ông lúc
đó: “Quyết định của Tổng Thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định
ông đă suy xét thận trọng. H́nh như Tổng Thống Thiệu đă ngần ngại về quyết định
đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
*“… Tổng Thống Thiệu phác họa sơ: …Một vài phần đất quan trọng đang bị Cộng Sản
chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi gía…Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai
tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại…” (Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của
Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131).
“Ngay sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào … . Một
thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục và biểu
quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với Hoa Kỳ cuộc
chiến Việt Nam đă kết thúc” (trang 132).
Henry Kissinger viết trong hồi kư của ông:
“Cho đến hôm nay tôi kính trọng ông Thiệu như là một gương hào hùng của một kẻ
dám chiến đấu cho nền tự do dân tộc của ông, một kẻ sau này đă chiến bại bởi
những hoàn cảnh ngoài tầm tay cá nhân ông, đất nước ông và ngay cả ngoài ṿng
quyết định của chúng ta…” ( Henry Kissinger, Years of Upheaval, 1981, Bản dịch
của Xuân Khuê)
Kissinger là người mà T.T. Nguyễn Văn Thiệu ghét cay ghét đắng cho tới khi xuống
mồ. Trong khi ngược lại, Kissinger cũng làm ra vẻ ghét cay ghét đắng T.T. Nguyễn
Văn Thiệu, kẻ mà báo chí và nhân dân Mỹ luôn luôn nguyền rủa là cản trở và phá
hoại ḥa b́nh.
Tuy nhiên cuối cùng, khi mà ḥa b́nh đă đạt được bằng cái giá phản bội dân tộc
Việt Nam, Kissinger mới b́nh tâm thú thực cảm nghĩ của ông ta về người anh hùng
lănh đạo đất nước Việt Nam trong thời gian gay cấn nhất của lịch sử. Kissinger
nói :
“… Sau khi ngưng bắn, quân đội chúng ta sẽ rút về bên kia bán cầu, c̣n dân tộc
của ông vẫn c̣n cảnh một đội quân tiếp tục hy sinh cho những hy vọng mong manh
của nền độc lập tại Đông Dương. Chúng ta đă chắc rằng biện pháp của chúng ta sẽ
kềm hăm tham vọng của Hà Nội. Nhưng mắt của ông T.T. Thiệu chỉ quan ngại vào
những điều mong manh về sau này…” ( Bản dịch của Xuân Khuê ).
Kissinger cũng thú thực là v́ không c̣n cách lựa chọn nào khác cho nên Mỹ đành
phải hy sinh Nam Việt Nam, và cũng v́ vậy mà Kissinger đành phải đóng vai làm kẻ
thù của T.T. Nguyễn Văn Thiệu nhưng tự sâu xa trong đáy ḷng, Kissinger khâm
phục T.T. Thiệu :
“…Như là một phép lạ phát xuất từ ḷng dũng cảm, ông Thiệu đă cố gắng lèo lái
quốc gia trong giai đoạn cam go này, chiến đấu chống lại quân thù cố tâm xâm lấn
và làm an tâm đồng minh nào chưa thông hiểu ông …
… Về riêng tư tuy tôi dành ít cảm t́nh về ông T.T. Thiệu nhưng tôi rất kính nể
ông v́ ông là một người kiên tâm chiến đấu trong nỗi cô đơn ghê gớm ( nguyên
văn: terrible loneliness ) sau cuộc rút quân của Hoa kỳ. Ông chấp nhận những cảm
t́nh và thông hiểu ít ỏi dành cho ông. Chuyện đó không làm phẩm chất của ông hao
ṃn đi…” ( Bản dịch của Xuân Khuê ).
Ngày 22-10-1972 Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đă nổi giận khi Kissinger ép buộc
ông phải chấp nhận bản dự thảo Hiệp định đ́nh chiến mà Kissinger đă cùng Lê Đức
Thọ soạn thảo tại Paris. Ông khuyến cáo Kissinger :
“Tôi không đồng ư về việc một số nhân viên của quư vị đi nói khắp Sài G̣n là tôi
đă kư. Tôi chưa kư kết ǵ cả. Tôi không phản đối ḥa b́nh nhưng tôi chưa nhận
được một trả lời thỏa đáng nào của quư vị cho nên tôi sẽ không kư”.
Kissinger mất b́nh tỉnh với tuyên bố của Tổng thống Thiệu, ông nói ông đă thành
công ở Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và Paris mà bây giờ ông phải thất bại tại Sài G̣n :
“Nếu ngài không kư, chúng tôi sẽ xúc tiến một ḿnh”.
Tới phiên Thiệu nổi giận, ông buộc tội Kissinger là thông đồng với Bắc Kinh và
Mạc Tư Khoa để bán đứng Miền Nam. Hồi kư của Kissinger ghi lại lời lẽ của Thiệu:
“Là một quân nhân th́ lúc nào cũng phải chiến đấu, nếu tôi không phải là một
quân nhân th́ tôi đă từ chức khi HK yêu cầu tôi từ chức và c̣n mặc cả với tôi về
ngày giờ từ chức… … Tôi chưa hề nói với ai là người Mỹ đă đ̣i tôi từ chức, v́
như vậy là nhục; cho nên tôi đă làm như tự ḿnh chọn lấy quyết định đó…”
(Kissinger, White House Years, trang 1385).
Kissinger đáp lại : “Tôi cảm phục tính hy sinh và ḷng can đảm của ngài qua lời
phát biểu vừa rồi. Tuy nhiên, là một người Hoa Kỳ, tôi không khỏi phiền ḷng khi
ngài cho rằng chúng tôi thông đồng với Liên Xô và Trung Quốc.
Làm sao ngài có thể nghĩ như vậy được trong khi quyết định ngày 8-5 của Tổng
thống Nixon ( Thả bom Hà Nội và phong tỏa các hải cảng Bắc Việt ) đă liều cả
tương lai chính trị của ḿnh để giúp quư ngài. Chúng tôi điều đ́nh với Liên Xô
và Trung Quốc là để làm áp lực, buộc họ phải làm áp lực với Hà Nội… Nếu như
chúng tôi muốn bán đứng quư ngài th́ đă có nhiều cách dễ dàng hơn để hoàn thành
việc đó…”( Kissinger, White House Years, trang 1385, 1386 ).
Rồi tới phiên Đại sứ Bunker mất b́nh tỉnh : “Vậy th́ thưa Tổng thống, lập trường
chót của ngài là không kư, có phải không?”
T.T. Thiệu đáp : “Vâng, đó là lập trường cuối cùng của tôi. Tôi sẽ không kư và
tôi xin ngài thông báo cho Tổng thống Nixon biết như thế. Xin quư vị trở lại
Washington và nói với Tổng thống Nixon rằng tôi cần được trả lời”.
Tổng thống Thiệu chỉ tay vào bản đồ Việt Nam rồi nói : “Có ǵ quan trọng khi Hoa
Kỳ để mất một quốc gia nhỏ bé như Nam Việt Nam? Chúng tôi không hơn ǵ một chấm
nhỏ trên bản đồ của thế giới đối với các ông… … Nhưng đối với chúng tôi, đó là
một sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết.
Đối với chúng tôi, đặt bút kư vào một hiệp ước tương đương với sự đầu hàng là
chấp nhận một bản án tử h́nh, v́ cuộc sống không có tự do là sự chết. Không, nó
c̣n tệ hơn là sự chết” ( Larry Berman; No Peace, No Honor; trích từ Văn khố Bộ
ngoại giao HK, bản dịch của Nguyễn Mạnh Hùng trang 230 ).
Sau 1975 th́ người Mỹ muốn lái sự oán hận mất nước của nhân dân Miền Nam vào ông
T.T. Nguyễn Văn Thiệu và quân đội VNCH để quên đi hành động “bán đứng đồng minh”
của Mỹ *( Lời của ông T.T. Nguyễn Văn Thiệu nói thẳng vào mặt Kissinger năm 1972
). Họ vận động các phương tiện truyền thông tiếng Việt tại hải ngoại kết án ông
Thiệu làm cho mất nước. Họ kết án quân đội VNCH hèn nhát, tham nhũng v.v,… Họ
dập tắt tiếng nói thanh minh của ông Thiệu và của những quân nhân VNCH. Họ thuê
bọn vô lại biến phong trào chống Cọng sản tại hải ngoại thành những tṛ thối tha
vô liêm sỉ….!
Hằng năm cứ vào mùa tháng Tư th́ các phương tiện truyền thông tiếng Việt như
RFA, BBC, …lại rộn lên những luận điệu kêu gọi ḥa hợp ḥa giải giữa chế độ CSVN
và những người đă bị đuổi chạy ra nước ngoài. Họ coi những người rượt đuổi và
những người bị đuổi đều tội lỗi như nhau.
Trong khi đó cuộc chiến Nam Bắc Hàn cũng giống hệt như cuộc chiến Việt Nam.
Nhưng ngày nay RFA, BBC… nói cho con cháu Nam Hàn rằng năm 1950 quân Bắc Hàn
tràn qua vĩ tuyến 38 đánh chiếm Nam Hàn. Quân đội Mỹ đă giúp nhân dân Nam Hàn
đẩy lui quân Bắc Hàn về Bắc. Tội lỗi đều là phía Bắc Hàn chứ phía Nam Hàn không
có lỗi.
Nhưng đối với cuộc chiến Việt Nam th́ quân Bắc Việt cũng tràn qua vĩ tuyến 17
đánh chiếm Miền Nam nhưng Mỹ lại nói : Phía CSVN và phía VNCH đều có lỗi cho nên
Mỹ đứng giữa không biết giúp bên nào !! Cho tới nay cũng chưa ngă ngũ bên nào
phải bên nào trái.
Cũng v́ chưa ngă ngũ bên nào phải bên nào trái cho nên cho tới nay danh dự của
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vẫn chưa được phục hồi. Người Mỹ vẫn muốn con cháu
Việt Nam nh́n Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu như là một kẻ luôn luôn cản trở và phá
hoại ḥa b́nh.
Bùi Anh Trinh