Con Tàu Chỉ Có Một Người

 

 

 

Anh cũng như bao nhiêu người sĩ quan khác ở Miền Nam. Sau 75, đều bị tập trung “cải tạo.” Những tháng đầu anh được vợ gửi cho một hai lần đồ ăn, sau đó th́ biệt tăm. Anh được phép viết thư về cho gia đ́nh nhiều lần. Nhưng không thấy vợ trả lời. Như thế kể như anh bị vợ bỏ. Sống trong trại cải tạo mà không có người thăm nuôi, không được tiếp tế đồ ăn, người đó kể như chết. Anh biết ḿnh nằm trong số người bất hạnh đó. Nên anh phải tự lực cánh sinh. Nói chơi cho vui vậy chứ tự lực ǵ nổi. Có được thăm nuôi hay không, người tù nào cũng co cúm lại. Thức ăn dành dụm từng chút. Ra ngoài lao động, con mắt của họ dáo dác t́m bất cứ thứ ǵ có thể bỏ vào bụng cho đở đói. Cho nên người có quà thăm nuôi cũng như dân mồ côi, khi ra ngoài lao động cũng xục xạo t́m kiếm đào bới như nhau. Ai t́m được nấy ăn. 

Chuyển ra ngoài Bắc anh lại càng tơi tả hơn. Không quen với cái lạnh thấu xương, bụng th́ đói meo. Trông anh như một ông cụ già hom hem. Công việc nặng nhọc làm cho anh c̣m lưng. Ngày trở về th́ không thấy hy vọng. Anh cứ nghĩ ḿnh kéo dài t́nh trạng đói khát, nặng nhọc nầy măi, th́ thế nào cũng bỏ xương tại cái xứ đèo heo hút gió nầy. Trốn trại th́ không can đảm.. Mà cũng chẳng biết trốn đi đâu, giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp. Đành phải bó tay chịu trận. 

Bỗng nhiên một hôm anh nhận được gói đồ ăn gửi bằng đường bưu điện. Anh nghĩ chắc vợ anh gửi cho. Nhưng khi cầm gói quà trên tay nh́n tên người gửi lạ hoắc, anh phân vân, đắn đo. Chắc chắn đây là một sự nhầm lẫn. Tuy nhiên v́ đói quá anh không có can đảm hoàn trả lại cho cán bộ, khi mà sự thèm khát đă lên tới tột đỉnh. Mà chắc ǵ gói quà được trả về cho khổ chủ của nó! Cán bộ trại đời sống cũng chẳng hơn tù bao nhiêu, thế nào họ cũng chia nhau. Trong lúc ḿnh đang cần, anh an ủi ḿnh như vậy. Anh về trại. Bạn bè tới chúc mừng anh. Như vậy, kể từ nay anh thuộc thành phần có thăm nuôi. Không c̣n mồ côi như trước. Gói quà đă được mở ra kiểm soát, cột lại sơ sài trước khi giao cho anh nhận lănh. 

Ai nhận quà về đến chỗ nằm của ḿnh, đều bóc ngay ra. C̣n anh th́ không dám đụng đến. Lúc đầu cái đói, cái thèm khát lâu ngày làm cho anh bấn loạn. Anh nghĩ nhận quà về bóc ra ngay ăn một bữa cho đă. Nhưng khi cầm gói quà trên tay, không phải tên vợ ḿnh gửi, anh đâm ra đắn đo. Anh nằm gác tay lên trán nghĩ ngợi về tên người gửi. Anh đào bới hết trí nhớ, vẫn không t́m ra tên người đàn bà nầy, được viết trên góc của gói quà. Bạn bè tù cùng pḥng với anh th́ nghĩ khác. Họ cho rằng lâu quá không được nhận quà, không nghe tin tức vợ, nên anh muốn kéo dài cảm giác sung sướng. Không bóc vội gói quà. Thế nhưng rồi cũng đến lúc gói quà được mở. Sau khi ăn cơm chiều xong, anh leo lên chỗ nằm, ngồi quay mặt vào vách. Anh trịnh trọng mở gói quà. Quan trọng với anh bây giờ không phải là trong gói quà có những ǵ để ăn. Giữa lúc nầy, sự thèm khát bỗng nhiên trốn mất. Mà là lá thư trong gói quà nói ǵ. 

“Anh yêu quư, 

Anh đă mất tích từ lâu, tưởng rằng anh đă chết. Em và các con lập bàn thờ mấy năm nay. Không ngờ, cách đây mấy hôm, vô t́nh đến thăm một người bạn, có người anh được thả ra từ trại cải tạo Miền Bắc. Em hỏi thăm là có bao giờ anh nghe tên người nào là Nguyễn Hữu trong trại của anh không? Anh đó trả lời là có một người cùng đội sản xuất với anh mang tên ấy, trước là đại úy thuộc Sư Đoàn 2, người Bắc Kỳ. Từ bao nhiêu năm nay không được ai thăm nuôi. Em nghe xong muốn quỵ xuống, đúng là anh rồi. Thế là từ nay em phải hạ bàn thờ xuống. Các con có bố chứ không c̣n mồ côi cha nữa. Em mừng quá, mang tên anh, tên đội, tên trại đến Ủy Ban Quân Quản Thành Phố để xin giấy phép gửi quà thăm nuôi. Lư do v́ loạn lạc, di chuyển nhiều lần, địa chỉ không c̣n chỗ cũ, nên không nhận được giấy gửi quà thăm nuôi. 

Anh đừng để vi phạm nội quy, ráng học tập tốt, sẽ được nhà nước khoan hồng để sớm về đoàn tụ với gia đ́nh. Có dịp được trại cho phép viết thư, anh viết thư về cho em biết sức khỏe của anh. Anh cần những ǵ lần sau có giấp phép em sẽ gửi ra cho anh. Em và các con bao giờ cũng mong chờ anh về. 

Thư nầy không viết dài được, em ngưng đây. Chúc anh luôn luôn khỏe mạnh. 

Vợ anh,
Lê Thị Hồng.”
 

Anh không dám đọc lại lần thứ hai. Một sự trùng hợp lạ kỳ, anh và ông Hữu kia cùng thuộc Sư Đoàn 2, cùng là người Bắc. Chỉ khác nhau là ông ta mất tích trong chiến tranh, c̣n anh th́ tŕnh diện đi “cải tạo.” Người đàn bà nầy v́ quá thương chồng không điều tra cặn kẽ, chứ trong một sư đoàn, chuyện trùng tên, trùng họ là chuyện b́nh thường. Mà cán bộ kiểm duyệt thư từ cũng lơ đễnh, không thấy chữ mất tích từ đầu lá thư. Anh nh́n gói đồ ăn mà ḷng trĩu nặng. Một bên vợ người ta, chồng mất tích bao năm mà vẫn chờ đợi. C̣n ḿnh sống sờ sờ vợ chẳng thèm ngó ngàng tới. 

Đọc thư xong, anh bỏ thư lại trong gói đồ rồi cột lại như cũ. Anh nằm gác tay lên trán suy nghĩ miên man. Các bạn chung pḥng đến hỏi thăm tin tức gia đ́nh anh ra sao, anh trả lời nhát gừng cho qua chuyện. Họ nghĩ, có lẽ gia đ́nh anh đang gặp rắc rối ǵ đó, nên anh buồn ít nói. 

Sáng hôm sau ra lao động, anh không mang thêm cái ǵ để ra ăn buổi trưa. Anh không biết phải làm sao với gói quà mà anh đă nhận. Anh cảm thấy ḿnh giống như một thằng ăn trộm, oa trữ đồ gian. Không biết phải giải quyết thế nào cho ổn thỏa đây. Mấy năm trời đói khát, thèm ăn. Chụp được một con dế, con cóc th́ xem như được một bữa tiệc lớn. Thế mà khi nhận quà có thịt chà bông, cá khô, muối sả ớt v..v… anh lại sờ sợ. Lương tâm ư? Làm ǵ có thứ nầy ở đây. Anh không biết phải diễn tả thế nào tâm trạng của anh lúc ấy. V́ đụng vào đó, anh thấy ḿnh như bị phạm tội. Buổi trưa, anh ra nhận cơm với vài cọng rau muống, nước muối. Anh lại thèm các thứ mà ḿnh đang giữ. Sự thèm khát lại bắt đầu dằn vặt, hành hạ anh. Anh không thể nào chống lại nổi sự đ̣i hỏi hợp lư nầy. Thôi th́ tới đâu hay tới đó. 

Ngày hôm sau anh mang tí ti đồ ăn theo, chia cho một số bạn cùng cảnh ngộ với anh, nghĩa là thuộc dạng mồ côi, không có ai thăm viếng hay gửi quà. Họ ăn một cách ngon lành. Anh ăn cũng ngon miệng nhưng khi ăn xong, anh thấy nghèn nghẹn. Mấy ngày đầu anh mang tâm trạng nầy, nhưng dần dần về sau nguôi ngoai. H́nh như sự phạm tội thường xuyên, ít bị lương tâm cắn rứt hơn là phạm tội một đôi lần. 

Vài ba tháng sau đó, anh được trại cho phép viết thư về gia đ́nh. Đây là một điều khó khăn cho anh. Gửi thư cho vợ hay gửi cho chị Lê Thị Hồng? Gửi cho vợ th́ bao nhiêu cái vẫn biệt vô âm tín, c̣n gửi cho chị Lê Thị Hồng, th́ biết nói sao cho chị hiểu là anh không phải là chồng chị ta. Nếu thư không bị kiểm duyệt th́ chuyện nầy dễ nói. C̣n thư tù như anh th́ qua biết bao nhiêu cửa ải.. Biết đâu khi cán bộ kiểm duyệt phát giác chuyện nầy sẽ tống cổ anh vô cùm. Cái tội mạo nhận ẩu để lănh đồ thăm nuôi. Một lần cũng là mang tội, mà cái tội nầy bạn bè biết được th́ khinh khi lắm. Nhưng mọi chuyện đă lỡ rồi, đành phải theo lao vậy. Anh đánh liều viết theo cái kiểu người chồng viết cho vợ.

“Hồng em,

 Cám ơn em rất nhiều về gói quà vừa rồi em gửi cho. Em đừng lo ǵ cho anh nữa, ở đây anh được nhà nước cách mạng lo cho đầy đủ, ăn uống không thiếu. Em yên tâm để dành lo cho các con. Em ở nhà cố gắng dạy dỗ các con nên người, cố gắng chấp hành chính sách và pháp luật của nhà nước cách mạng.

 Nhờ ơn cách mạng, nhờ ánh sáng soi đường, nhờ chính sách khoan hồng của nhà nước ta. Anh học tập đă hiểu thế nào con đường lầm lẫn của ḿnh trước đây. Anh đă ăn năn hối cải và mong sao sau khi được khoan hồng trở về với gia đ́nh, anh sẽ làm lại cuộc đời tốt hơn. Đừng lầm lẫn đi theo con đường cũ nữa, phải sống ḥa đồng với nhân dân và tuân thủ pháp luật nhà nước.

Nhắc lại cho em rơ, đừng gửi quà cho anh nữa. Ở đây anh ăn uống rất đầy đủ, hăy dành dụm cho con, lo cho tương lai các con. 

Cầu chúc em và các con khỏe mạnh. 

Chồng em,
Nguyễn Hữu.”

 

Anh nhắc lại hai lần chữ “lầm lẫn,” để chị Hồng biết đoán ra mọi sự, không dám viết đi viết lại nhiều lần, sợ cán bộ trại nghi ngờ. Hai ngày sau, văn pḥng trại gọi anh lên làm việc. Anh điếng hồn, không biết chuyện ǵ xẩy ra. Có lẽ v́ mấy chữ lầm lẫn đó sao? Người kiểm duyệt sao thông minh quá vậy. Anh vừa đi, vừa t́m cách chạy tội. Nhưng không nghĩ ra cách nào giải thích, anh đổ liều, cứ chối đại ra sao th́ ra. Mỗi lần gọi người nào một cách bất thần như vậy, là người đó có vi phạm điều ǵ. Các bạn tù cùng pḥng lo lắng cho anh. 

Anh bước vào pḥng cán bộ quản giáo, đầy lo âu và không biết chuyện lành dữ ra sao. Người công an chấp cung ngồi trước lá thư của anh viết cho chị Hồng. Anh ta tươi cười mời anh ngồi đối diện, rút trong túi gói thuốc lá mời anh. Một thái độ thân thiện lạ lùng. Anh rút một điếu và chậm răi hút. Người cán bộ nh́n anh nói: 

“Trong trại nầy, ai viết thư về cho gia đ́nh cũng xin cái nầy cái nọ. Riêng anh th́ không, lại bảo chị đừng gửi ǵ cả. Cũng lạ thật. Anh thật sự không thấy cần thiết sao?” 

Anh lắc đầu: 

“Nhiều năm không được thăm nuôi, quen rồi. Hơn nữa gia đ́nh tôi cũng nghèo. Vợ tôi lo cho các cháu đủ mệt. Lo thêm cho tôi, kiệt sức mất. “ 

“Anh nghĩ vậy cũng đúng. Các anh ngày trước sung sướng quen rồi, không quen chịu cực khổ. Mới có vài năm đă thấy thèm khát đủ thứ.. Chúng tôi mấy chục năm đánh giặc. Ăn uống kham khổ. Không hề hé răng.” 

Người cán bộ nói tiếp: 

“Chúng tôi có bỏ đói các anh đâu. Nuôi ăn đầy đủ đấy chứ. Chúng tôi cũng muốn cho các anh về với gia đ́nh. Nghẹt v́ các anh chưa thông suốt chính sách cách mạng, nên chúng tôi phải tạm giữ thêm một thời gian nữa.” 

Anh ấp úng:  

Vâng, thưa cán bộ.” 

Người cán bộ nh́n thẳng vào mặt anh, trịnh trọng nói: 

“Thay mặt Quản Giáo trại, tôi biểu dương tinh thần ư thức của anh. Thư anh gửi có giá trị thuyết phục. Anh là trại viên gương mẫu, sẽ được Ban Quản Giáo Trại đề bạt để anh được về sớm với gia đ́nh.”

 Mấy thằng làm ăng-ten, cũng nghe cái lời hứa cho về sớm. Nên chúng nó ra sức kiếm điểm, mà có thấy thằng nào được về trước đâu. Anh cười thầm trong bụng với cái chiêu dụ nầy. 

Người cán bộ tiễn anh ra cửa và bắt tay thân thiện. Anh hú hồn, thoát được sự căng thẳng. Anh về chỗ nằm. Mấy người bạn tới hỏi thăm tin tức về chuyện nầy. Anh trả lời với họ là bị cán bộ cảnh cáo, v́ lá thư viết không đúng tiêu chuẩn. Anh nghĩ thế nào rồi câu chuyện nầy cũng đổ bể. Rồi cũng sẽ đi cùm vài tháng, với cái tội mạo nhận ẩu để lấy quà gửi. Chị Hồng thế nào cũng nhận ra nét chữ, và chữ kư của anh, không phải của chồng. Không cần mấy chữ “lầm lẫn” kia, chị Hồng cũng hiểu hết mọi sự là chồng chị đă chết. 

Ngày nầy qua tháng khác, anh vẫn lao động đều đặn. Anh vẫn yên tâm là ḿnh trở lại với vị trí mồ côi muôn thuở. Anh không c̣n hy vọng có ai đó ngó ngàng tới để gửi cho chút quà thăm nuôi. Người ta có gia đ́nh gửi quà. Người ta có quyền tưởng tượng các món ăn để vỗ an cho cái dạ dày. V́ thế nào có ngày cũng được thăm nuôi, món ăn ḿnh ao ước sẽ được người nhà mang đến. C̣n anh chỉ ăn hàm thụ các món đó thôi. Cũng không sao nghĩ ra, cái đói khát triền miên, đă làm cho anh chai ĺ mọi ao ước. Thần kinh tê liệt và suy sụp đến tận cùng. 

Nhận quà thăm nuôi bằng bưu điện lại có tên anh. Lại thêm một lần ngạc nhiên. Lần trước anh không dám mở gói quà, v́ biết đó không phải là quà của ḿnh. Không dám đọc thư v́ biết thư đó không viết cho ḿnh. Lần nầy th́ ngược lại. Về đến chỗ nằm th́ anh xáo tung để t́m lá thư ra đọc. Thư viết cũng thắm thiết như lần trước, không hề đá động ǵ sự lầm lẫn mà anh đă nhấn mạnh. Nét chữ cứng cỏi thể hiện người viết có học thức, thế mà tại sao không biết mọi sự lầm lẫn đó. Trong thư nầy chị Hồng lại hiểu sai vấn đề, nghĩ rằng v́ mấy năm không nhận quà thăm nuôi, nên anh giận dỗi. Biết làm sao đây, khi mà anh không có khả năng bày tỏ tự sự. Mặc kệ, cứ thản nhiên mọi chuyện, cứ ăn cho sướng. Phó mặc mọi chuyện cho trời đất. Anh đổ ra cáu kỉnh và ĺ lợm. H́nh như anh muốn tạo ra t́nh huống nầy, để dễ dàng nuốt trôi mấy miếng thực phẩm thăm nuôi, mà không thẹn với lương tâm.

Mỗi lần sực nhớ lại chuyện quà cáp, anh vội vàng xua đuổi ngay. Nhủ với ḷng ḿnh như vậy, nhưng dễ ǵ quên được điều đó. Mỗi đêm, khi cơn đói hành hạ, các món ăn trong trí tưởng tượng tuôn ra, là h́nh ảnh chị Hồng lại hiện lên. Đẹp hay xấu lúc nầy đối với anh chẳng cần thiết, nhưng tấm ḷng thương chồng của chị đă làm cho anh cảm phục. Thực sự, anh thương hại cho hoàn cảnh côi cút của chị và mấy đứa con. Sống giữa sự khó khăn chung của xă hội, nuôi mấy miệng ăn cũng thấy khó lắm rồi, đừng nghĩ ǵ xa xôi hơn như chuyện thăm nuôi chồng. Tệ hại hơn nữa, đây không phải là chồng của ḿnh. 

Mọi chuyện vẫn b́nh thường, ngày nầy qua ngày khác trong trại cải tạo. Anh vẫn sinh hoạt chung với các anh em. Bỗng nhiên một ngày, sau khi đi lao động về, anh được loa phóng thanh gọi tên ra khu thăm nuôi, có vợ là Lê Thị Hồng đến thăm. Lần nầy th́ anh bối rối thật sự. Anh biết sự gặp nhau nầy rất bẽ bàng và ngượng ngập.. Mọi sự thật sẽ làm cho chị Hồng đau khổ biết mấy. Với anh th́ không sao, anh đă biết trước mọi chuyện, anh đă chuẩn bị tinh thần. Dù ǵ th́ anh cũng phải trả lại sự thật nầy. Anh không muốn nó cứ măi kéo dài, cứ măi gây cho anh cảm giác phạm tội. Anh cố gắng diễn tả cho chị ấy biết, anh không phải thứ lừa đảo để kiếm miếng ăn. Dù có chết anh cũng chấp nhận, chứ không thể thuộc loài vô loại nầy. Anh nói nhiều, nhiều hơn nữa, để cảm ơn, để chị tha thứ. Anh sợ một vài tháng bị cùm, sợ mất mấy miếng ăn, mà phải để lại sự hiểu lầm trầm trọng. Để chị phải lặn lội khó nhọc, leo đèo vượt suối, từ Sài G̣n ra tận nơi đây thăm một người mà không phải là chồng ḿnh. 

Người cán bộ phụ trách dẫn anh ra khu trại thăm nuôi. Từ xa anh nh́n thấy người đàn bà đang ngồi nơi bàn chờ đợi. Tự nhiên anh hồi hộp. Tự nhiên chân anh bước cảm thấy nặng nề. Rồi anh cũng bước tới chỗ chị ngồi. Tim anh muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Anh e thẹn như con gái. Thấy xấu hổ và hối hận. Chị Hồng nh́n anh rồi bật khóc. Chị khóc nức nở.. Mặt cúi xuống bàn. Tiếng khóc ấm ức như đang gặp sự bất trắc. Anh ngồi vào vị trí đối diện. Nước mắt anh cũng chảy dài. Anh không nói được với chị câu ǵ. Những ǵ anh đă chuẩn bị bay đi đâu cả. Người cán bộ ngồi ở đầu bàn kiểm soát thấy hai người cứ khóc măi.. Có lẽ anh ta nghĩ rằng v́ vợ chồng lâu ngày xa nhau, thương nhớ chồng chất lâu ngày, để họ khóc cho đă nư. Anh ta cũng chẳng cần để ư tới họ. Anh ta vừa đứng dậy đi ra cửa sổ khạc nhổ, anh chụp ngay cơ hội nói với chị: “Xin lỗi…xin lỗi chị…” 

Chị ngẩng mặt lên đưa ngón tay giữa miệng, ngụ ư cho anh biết đừng nói ǵ thêm. Anh thở dài. Tiếng thở của anh nghe rất năo nuột. Nhưng trong tiếng thở ấy, như hàm chứa tất cả những ǵ anh đă chuẩn bị nói ra với chị. Chị lau nước mắt nh́n anh, rồi ấp úng hỏi anh những câu về sức khỏe, những lời khuyên cố gắng học tập tốt để về với gia đ́nh, cho vừa ḷng cán bộ kiểm soát. Chị cũng bịa ra những chuyện là con cái vẫn đi học b́nh thường, cha mẹ khỏe mạnh, tất cả gia đ́nh, ḍng họ, trông anh mau về sớm. Anh chỉ gật đầu mà không thốt được lời nào. Chị khóc chiếm hầu hết thời gian thăm nuôi. Hơn ai hết, anh hiểu tiếng khóc của chị. Mọi hy vọng gặp lại chồng xem như hoàn toàn không c̣n nữa. Chị khóc cho số phận hẩm hiu của ḿnh, thương cho phần số ngắn ngủi của chồng. 

Cán bộ báo cho biết giờ thăm nuôi chấm dứt. Chị đưa tay nắm lấy tay anh. Anh đưa hai bàn tay ra ôm lấy tay chị. Tự nhiên, không biết tại sao anh bật khóc lớn. Có lẽ anh thấy tủi thân. Anh thấy ḷng thương hại của chị dành cho anh, đây là lần cuối. Làm sao anh đ̣i hỏi ǵ hơn, với người đàn bà không phải là vợ ḿnh. Khóc cho ḿnh, mà cũng thương cho chị lặn lội đường xa t́m chồng. Chị lủi thủi trở về với niềm tuyệt vọng. Rồi anh chị chia tay. Anh gánh phần quà của chị mang tới cho anh, vào trại. Chị đứng dựa vào cột tre nh́n theo. Thỉnh thoảng anh quay đầu ngó lại, lần nào chị cũng đưa tay lên vẫy chào. Mọi người trong trại từ xa nh́n thấy cảnh nầy. Ai cũng thông cảm cho cảnh vợ chồng khắng khít, bây giờ phải ĺa xa. 

Anh gánh vào tới phạm vi giam giữ, th́ các bạn anh chạy ra phụ mang đồ về pḥng. Anh đứng lại nh́n ra khu thăm nuôi, đưa tay vẫy chào chị cho đến khi chị ra khỏi cổng trại khuất dạng. Anh lầm lũi về chỗ nằm. Đồ đạc c̣n để lăn lóc dưới đất. Anh chẳng màng sắp xếp. Anh vẫn chưa kịp định thần lại. Những giây phút thật bất ngờ đến với anh nhanh quá. Suốt trong nửa giờ gặp nhau, anh chỉ nói ra được hai tiếng xin lỗi.. Màn kịch do chị diễn ra thật xuất sắc, xuất sắc đến nỗi anh là người trong cuộc, vẫn cảm thấy rất tự nhiên không ngượng ngịu. Không sao hiểu nổi được ḷng chị. 

Ngồi nhớ lại cảnh gặp gỡ, khi chị ngước mắt lên nh́n anh. Khuôn mặt chị thật đẹp, đôi mắt thật hiền từ. Anh nghĩ chị cũng đă biết trong mấy lá thư gửi về, không phải là thư của chồng. Thế nhưng chị vẫn hy vọng, mong manh hy vọng. Trong mong manh đó chị đổi một giá cho sự phũ phàng, cay đắng. Có lẽ khi nhận thư hồi âm, sau khi đọc, chị thấy thương hại cho anh, thông cảm nỗi thống khổ của anh. Chị quyết định tiếp tục liên hệ với anh, giúp đỡ anh. Khi ra thăm nuôi, chị vẫn biết anh không phải là chồng, nhưng chị vẫn đi. Để xác định rơ ràng, khi gặp anh tức là chồng chị đă chết. Nghiệt ngă thật. Chị bật khóc, v́ thương cho chồng th́ ít, mà lại thương anh nhiều hơn. Sống một đời tù tội, lao khổ, bị gia đ́nh bỏ rơi. Dù sao chồng nằm xuống cũng đă lâu, nước mắt của chị đă bao năm khóc cho chồng, bây giờ đă khô cạn.. Gặp anh trong một hoàn cảnh thật bi thương, sống giữa một trại tù vô cùng cực khổ, không tin tức gia đ́nh vợ con. Anh đang chơi vơi giữa tận cùng khổ đau, dày xéo trên thân thể những vết hằn tủi nhục. Nước mắt của chị trào ra, khi ngước mắt trông thấy một con người thân thể vừa tiều tụy, vừa đờ đẫn, đang đứng đối diện. 

Đêm nay anh nằm đây, nghĩ lại cái cảnh chị lầm lũi bước lên tàu trở về Sài G̣n. Con tàu chạy vùn vụt trong đêm tối. Chỉ c̣n một ḿnh chị thức, nh́n ra bên ngoài với sự trống vắng. Chị ôm một nỗi buồn sâu lắng. Đất nước đang trải qua một cơn sốt kinh khủng, đày đọa biết bao người lâm vào cảnh khốn cùng. Chị nghĩ sao về anh? Chị có c̣n giữ liên lạc với anh không?… Dù sau nầy thế nào, dù có giữ liên lạc hay cắt đứt, ơn nầy với anh suốt đời không quên được. Anh hứa với ḷng ḿnh, sau khi được trở về, anh sẽ t́m thăm chị. Sẽ nói với chị thật nhiều, cám ơn chị thật nhiều. Thay cho lần gặp gỡ trong trại không nói được.
Anh thấy trên con tàu trở về kia, chỉ có mỗi một ḿnh chị. C̣n tất cả đều nhạt nḥa. Một ḿnh chị thôi, chứa trên đó nỗi đoạn trường, bất hạnh của một đời người. Nhưng thật vô cùng quư báu của một tấm ḷng. Tội nghiệp chị, con tàu đang chở chị lao vào màn đêm, xé tan bóng tối và lạnh lẽo.

Phan Xuân Sinh

 

Nguồn: Click

 

More reading