|
|
Hải
Quân VNCH, Mỹ Và TT Thiệu;
Từ Dinh Độc Lập 1969
Tới Ngôi Nhà
Ngoại Ô London Sau 1975 |
|
Viet Bao
Nguyễn Tiến Hưng, tác giả cuốn “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu,” nói chuyện với
các bạn hải quân tại nhà hàng Paracel, Little Saigon về những điều chưa
thể viết trong sách.
Ngày 28/1/1969 - vừa lên ngôi, TT Richard
Nixon đă nhóm họp ngay với Hội đồng An ninh Quốc gia nới rộng để bàn về
Việt Nam.
Tướng Andrew Goodpaster, Phó của Đại tướng Creighton Abrams tŕnh lên
tổng thống: “Quân đội Việt Nam Cộng ḥa đă không ngừng cải thiện, và
thời điểm mà ‘De-Americanization” - vai tṛ của quân đội Mỹ có thể được
thu hep lại th́ đă cận kề.” Bộ trưởng Quốc pḥng Melvin Laird đồng ư với
quan điểm này, nhưng không đồng ư với ngôn từ ‘De- Americanization.”
"Điều chúng tôi cần là một thuật ngữ như “Vietnamization” (‘Việt Nam
hóa' chiến tranh) để nhấn mạnh vào vấn đề chính yếu là giúp cho Miền Nam
có đủ khả năng để tự bảo vệ. TT Nixon đồng ư ngay và tuyên bố chương
tŕnh này tại cuộc họp đầu tiên giữa hai Tổng thống Nixon và Thiệu tại
đảo Midway vào ngày 8/6/1969.
Chỉ 5 tháng sau, chương tŕnh này được khởi
sự với Hải Quân VNCH. Và từ đó, Hải Quân đă phát triển rất mạnh và mau
chóng:
1969: Mỹ chuyển giao 80 tầu tuần giang. Ngay lập tức Hải Quân tiếp thu
toàn bộ chiến dịch tuần tra, kiểm soát sông ng̣i của lănh thổ.
1971: tiếp nhận công tác tuần tra vùng Duyên Hải và trên biển;
1972: tiếp thu và quản lư toàn bộ 16 đài kiểm thính (radar) duyên hải để
chấm dứt hoàn toàn hoạt động của Hải quân Mỹ.
1973: VNCH đă hoàn tất chương tŕnh bành trướng Hải Quân lên đến quân số
trên 40,000 sĩ quan và thủy thủ.
Theo như sự đánh giá của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu – chính v́ sự giúp
đỡ tối đa của Đô Đốc Emmo Zumwalt - một người đă rất gắn bó với VNCH –
cho nên Hải Quân đă trở thành một lực lượng lớn mạnh đáng kể.
Khi chúng tôi viết cuốn ‘Tâm Tư Tổng Thống Thiệu’, nhà tôi đă khuyên tôi
nên viết một chương về Hải Quân nhưng sách đă dài trên 700 trang, không
thể thêm vào được. Cho nên trong bài này chúng tôi xin nhắc lại một số
sự kiện lịch sử liên hệ:
- Chỉ trong ṿng 5 năm, với 64,200 vật liệu và phụ tùng đă được lưu trữ
tại trung ương và các cơ xưởng của Hải Quân để sửa chữa và bảo tŕ cho
1,429 tầu chiến gồm 13 loại lớn nhỏ - từ Khu Trục Hạm, Tuần Dương Hạm
tới Dương Vận Hạm, Xà Lan chở dầu. Hệ thống tiếp liệu của Hải Quân VNCH
được Bộ Quốc Pḥng Mỹ đánh giá là lớn lao nhất và hiệu quả nhất Đông Nam
Á.
Để có một ư niệm về hệ thống này phức tạp như thế nào, ta có thể so sánh
nó với HOME DEPOT. Khi ta vào đây mua sắm vật liệu th́ thấy như vào cái
rừng, nhiều khi vợ chồng c̣n đi lạc nhau. Tuy nhiên HOME DEPOT cũng chỉ
lưu trữ từ 30,000 tới 38,000 vật liệu so sánh với trên 64,000 của Hải
Quân VNCH.
Hệ thống tiếp liệu của Không Quân và Lục Quân th́ lớn hơn nhiều: 192,000
và 127,000 nhưng đa số được lưu trữ ở ngoại quốc. Khi máy bay khu trục
cần sửa chữa tới ‘cấp 4’ (rigging operation) th́ phải đưa sang Đài Loan.
Trái lại, Hải Quân có đủ vật liệu và kỹ thuật để sửa chữa chiến hạm ngay
trong nước.
-Hải Quân giữ một nhiệm vụ quan trọng trong việc bảo vệ an ninh đường
thủy, đóng góp rất lớn cho nền kinh tế miền Nam, v́ lúa gạo, đường, gia
súc, tôm cá, các nhu yếu phẩm hầu hết được đưa về cảng và các kênh ở Sài
G̣n và các tỉnh bằng đường sông rạch chằng chịt tại đồng bằng châu thổ
Cửu Long, v́ đường bộ thiếu an ninh lại bị tắc nghẽn ở Phà Mỹ Thuận. Phà
này phải đi qua khúc sông Cửu Long dài tới nửa cây số.
Dinh Độc
Lập: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tiếp sứ giả Hoa Kỳ. Phía b́a trái là
Tổng trưởng Kế Hoạch Nguyễn Tiến Hưng.
Cầu Mỹ Thuận mà Mỹ không
thuận!
Nơi đây chúng tôi xin kể lại một câu chuyện bên lề về Phà Mỹ Thuận: một
hôm chúng tôi họp với Bộ Công Chánh để t́m hiểu tại sao chính phủ đă có
dự án xây một cây cầu ở Mỹ Thuận từ mấy năm rồi mà chưa xây để khai
thông hệ thống chuyển vận đường bộ? Các chuyên gia trả lời là v́ nhiều
lư do như t́nh h́nh an ninh khó khăn (dễ bị gài ḿn trên sông), chưa đủ
chuyên gia kỹ thuật...
Sau cùng một thanh niên rất trẻ đứng lên phát biểu: “Dạ thưa ông: cái
cầu tên là Mỹ Thuận nhưng Mỹ chưa bao giờ thuận nên không xây được.” Câu
nói của thanh niên này đă tóm gọn t́nh trạng phải lệ thuộc vào Hoa Kỳ
không những về quân sự mà c̣n về kinh tế của Miền Nam trong thời gian
chiến tranh: v́ cuộc chiến kéo dài từ 1945 nên đă không cho phép sản
xuất, phát triển.
- Sau Hiệp Định Paris, TT Thiệu đă chỉ thị cho chúng tôi qua Mỹ để yêu
cầu Hoa Kỳ thay thế cho HQVN những chiến hạm đă quá cũ kỹ theo điều
khoản “một đổi một” của Hiệp Định Paris. Ông đặc biệt nhấn mạnh tới
chiến hạm thuộc loại chuyển vận như Dương Vận Hạm – LST (Landing Ship
Tank), nhưng không thành công v́ Hiệp Định này chỉ cho phép “một đổi
một” về phẩm chất: không được thay cũ đổi mới.
TT Thiệu nói: sở dĩ cần ngay LST v́ một phần là để giúp chuyển quân thay
cho trực thăng v́ mô h́nh Việt Nam hóa vẫn đặt nặng hai yếu tố “Mobility
và Fire Power” – di động tính và hỏa lực.
‘Mobility’ th́ luôn cần trực thăng mà bây giờ nhiều chiếc phải nằm ụ v́
thiếu phụ tùng.
Cho nên cần có LST thật tốt để hay thế một phần. VNCH chỉ có 5 cái: HQ
500 tới HQ 505.
Vai tṛ của LST quan trọng như thế nào th́ đă phản ảnh vào những ngày
tháng cuối cùng:
Tháng 3/1975 Trung tướng Ngô Quang Trưởng rất lo ngại về cái chốt nguy
hiểm ở đèo Hải Vân:
QL 1A đi từ Huế tới Đà Nẵng dài 95 cây số và phải qua đèo Hải Vân. Đèo
này nằm trên dẫy núi dài tới 21 cây số. Rồi qua Cửa Tư Hiền rất khó
khăn: nơi thông đầm Cầu Hai với Biển Đông.
Cho nên Tướng Trưởng chỉ trông nhờ vào cảng Tân Mỹ ở đầu nguồn Sông
Hương. Chúng tôi biết được chuyện này v́ trong một báo cáo cho TT Thiệu,
qua tài liệu của t́nh báo Mỹ th́: ba sư đoàn VNCH ở Huế và lân cận có
thể bị rơi vào cạm bẫy của quân đôi Bắc Việt v́ – ngoài Phi Trường Phú
Bài th́ chỉ c̣n cái cảng nông cạn, śnh lầy là cảng Tân Mỹ để rút lui:
“Sáu Sư đoàn Bắc Việt ở phía Bắc và ba SĐ ở khu vực Quảng Trị-Thừa
Thiên, tổng cộng là 9 SĐ sẽ có thể đánh bại 3 SĐ VNCH nội trong trong
mấy ngày.”
Và ngôi nhà
nhỏ ở ngoại ô Luân Đôn, nơi Ông Thiệu tiết lộ kế hoạch sau cùng.
Sau cùng th́ cái ǵ đă
xảy ra?
Trên đường rút từ Huế: Lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến 147 rút về cảng Tân
Mỹ để được LST của Hải quân chuyển đi. Nhưng căn cứ này đă sớm bị tràn
ngập thường dân t́m cách di tản, cho nên sau cùng LST chỉ có thể vào gần
bờ vài trăm feet, bắt buộc TQLC phải bơi ra tàu, cuối cùng chỉ có khoảng
600 trong số 3000 TQLC được chuyển vận tới Đà Nẵng.
- Trở lại Hiệp Định Paris, một điểm quan trọng cần được ghi lại cho lịch
sử: đó là về việc di chuyển quân: Hải Quân và chỉ có Hải Quân là không
bị trói tay bởi Hiệp Định Paris. Hiệp Định này được gọi là “Hiệp Định Da
Beo:” cho phép bộ đội Bắc Việt đóng lại Miền Nam ở rải rác khắp nơi như
những đốm da beo trên bản đồ. Cho nên Không Quân bị ngăn chận không được
bay qua và Bộ Binh không được vận chuyển qua những khu vực này.
Trái lại, trên mặt biển th́ không có đốm da beo nào (cho tới trận Hoàng
Sa) cho nên Hải Quân đă hoàn toàn làm chủ đại dương cho tới ngày cuối
cùng.
-TT Thiệu đă có tầm nh́n xa về Biển Đông: sau khi mất Hoàng Sa ông đă
nghi ngại Trung Cộng sẽ tiếp tục xâm chiếm lănh thổ hải đảo và sẽ đưa
tầu chiến vào Trường Sa, nên đă điều thêm chiến hạm HQVN ra pḥng thủ
Trường Sa với bất cứ giá nào.
Đây là vấn đề quân sự, nhưng lúc ấy v́ một t́nh cờ chúng tôi mới biết
chuyện này, đó là khi gặp Tướng John Murray (chỉ huy cơ quan DAO Bộ Quốc
Pḥng Mỹ ở Sài g̣n) để cập nhật ngân sách viện trợ (là lănh vực của
chúng tôi) th́ có cả vấn đề tiết giảm chi tiêu quân sự, gồm cả Hải Quân.
Ông Murray nói tới khuyến nghị của ông đối với chi tiêu của Hải Quân và
cho biết ông đă đề nghị Bộ Tổng Tham Mưu rút hết các chiến hạm khỏi
Trường sa và đóng cửa một số cơ sở bảo tŕ của Hải Quân:
Căn cứ yểm trợ hành quân ở Cần thơ;
Hai căn cứ yểm trợ hành quân tại Vĩnh Long, và Long Phú;
Hai căn cứ sửa tầu ở Cửu Long và Cần Thơ; và
Hai căn cứ yểm trợ nhanh ở Chợ Mới và Thuận An.”
Tôi hỏi tại sao nên rút chiến hạm khỏi Trường Sa? Ông trả lời là v́ hai
lư do: thứ nhất, nguyên tiền xăng nhớt cho hai chiến hạm ở đây đă tốn
tới nửa triệu đôla một năm; và thứ hai: thả neo ở Trường Sa là không cần
thiết v́ “Hải Quân của Bắc Việt không thể nào vào tới tận Trường Sa.”
Tôi báo cáo lại với TT Thiệu, ông nói: “Bắc Việt không thể nào vào tới
Trường Sa nhưng sau Hoàng Sa, Trung Cộng sẽ ngừng để nghỉ ngơi, tái phối
trí rồi sẽ tiến thẳng vào Trường Sa.”
Ông cho biết đă ra lệnh không những tiếp tục bảo vệ mà c̣n tăng cường
nếu cần thiết. Theo sự suy nghĩ của chúng tôi, sở dĩ ông nhất quyết như
vậy - dù đă sắp cạn tiền mua xăng - một phần cũng v́ ông cho rằng phải
bảo vệ kho tàng dầu lửa. Lúc ấy, tin tức về khai thác thành công dầu lửa
ở Trường Sa đang rộ lên.
-Với sự bảo vệ an ninh của các chiến hạm HQVN, các giếng dầu hoạt động
ngoài khơi Biển Đông đă có dấu hiệu có thể xuất cảng dầu thô, chỉ trong
vài ba năm đă có thể lên tới 1 tỷ dollars mỗi năm, một triển vọng cho
miền nam trù phú có thể tự lực, tự cường mà không c̣n phải nhờ vả vào
viện trợ Hoa Kỳ nữa..
-Trong trận Mùa Hè Đỏ Lửa, TT Thiệu đă dự trù cho 1 sư đoàn Bộ Binh đổ
bộ ra Vinh bằng các chiến hạm HQVN, làm nghi binh để cho bộ đội Bắc Việt
phải rút về pḥng thủ.
- Về trận Hoàng Sa 19/1/1974, TT Thiệu đă ra lệnh trực tiếp cho tư Lệnh
Vùng I Duyên Hải Hồ Văn Kỳ Thoại mà không qua hệ thống quân giai để phản
ứng nhanh chóng trong việc bảo vệ Hoàng Sa. Sau đó ông c̣n ra lệnh cho
Không Quân dùng máy bay khu trục F5E để bay ra bắn ch́m tầu của Trung
Cộng. Nhưng hai phi vụ không thực hiện được v́ Ngoại trưởng Henry
Kissinger đă ngăn chận. Nhân chứng c̣n sống là Đại Tá Nguyễn Quốc Hưng,
Phụ Tá Tham Mưu Phó Hành Quân, Bộ Tư Lệnh Không Quân (‘Khi Đồng Minh
Nhảy Vào’ Chương 25).
- TT Thiệu tin tưởng Hải Quân sẽ đủ khả năng bảo vệ bờ biển Đà Nẵng, để
Bộ Binh và Không Quân tử thủ thành phố này, nếu giữ được hai tuần lễ –
như điều kiện Hoa Kỳ đă đặt ra trong một kế hoạch tối mật giúp bảo vệ
Miền nam. Tuy nhiên thành phố Đà Nẵng đă thất thủ nhanh chóng v́ lệch
lạc hỗn loạn dẫn đến sụp đổ của chính thể VNCH. Và lịch sử cũng đă rơ là
nếu VNCH có giữ được hai tuần th́ Hoa Kỳ cũng đă thất hứa v́ đă quyết
định tháo chạy.
H́nh chụp từ
tấm bản đồ trong “Pḥng T́nh H́nh” của TT Thiệu mà người viết c̣n giữ.
Bản thu nhỏ cũ kỹ, đường nét mờ mịt. Vị trí từ Bến Lức, ranh giới dự
tính cho một VNCH thu gọn về miền tây..
Vai tṛ
Hải Quân trong kế hoạch sau cùng
Vai tṛ Hải Quân trong chiến lược cuối cùng: rút về Miền Tây để bảo vệ
một VNCH thu gọn.
Sau này tại Luân Đôn, TT Thiệu tiết lộ về kế hoạch cuối cùng của ông là
‘cắt cầu Bến Lức, rút về Miền Tây.’ Ông nói rằng lúc ấy ông hy vọng nếu
Mỹ đồng ư cho ta vay một số tiền (khoảng 1 tỷ đôla) để mua được tiếp
liệu th́ sẽ rút về Miền Tây để chỉ giữ một VNCH thu gọn, v́ khả năng
quân sự ở nơi đây c̣n nguyên vẹn và t́nh h́nh an ninh rất tốt. Ông giải
thích là không thể nào giữ được cả bốn quân khu với một biên giới quá
dài v́ quân số rất ít: tuy lư thuyết là trên một triệu binh sĩ, nhưng
trong thực tế, quân đội chủ lực chỉ có khoảng 130,000. Sau Đà Nẵng, số
này chỉ c̣n vỏn vẹn 63,000. Tuy nhiên, nếu có phương tiện để gấp rút thi
hành kế hoạch tái tổ chức th́ vẫn có thể giữ được Miền Tây. Sau tuyến
Tây Ninh – Nha Trang, tuyến cuối cùng mà ông Thiệu vẽ trên bản đồ là từ
Mỏ Vẹt qua Bến Lức (xem bản đồ).
TT Thiệu cắt nghĩa là từ cầu Bến Lức, pḥng tuyến mới của một VNCH thu
gọn sẽ dễ bảo vệ hơn nhiều. Ranh giới chỉ c̣n phần giáp Cao Miên và mấy
chục cây số từ Mỏ Vẹt ra tới biển.
Khúc c̣n lại, tức là phần lớn của biên giới th́ chỉ là duyên hải. Theo
sự ước tính của chúng tôi th́ biên giới sẽ không phải là cả gần 700 dặm
nữa mà được thu hẹp lại chỉ c̣n khoảng trên 130 dặm.. Phần lớn công tác
biên pḥng của một VNCH thu gọn sẽ được Hải Quân trấn giữ.
Cho nên, tổng kết cho lịch sử: cùng với Lục Quân (đă bảo vệ lănh thổ cho
tới tháng 1/1975 khi mất tỉnh đầu tiên trong suốt cuộc chiến mà không
lấy lại được: đó là Phước Long; cùng với Không Quân (đă bảo vệ tất cả
bầu trời cho thật an ninh cho tới khi bị giới hạn bởi HĐ Paris), Hải
Quân VNCH có thể tự hào là đă làm tṛn bổn phận đối với Tổ Quốc và Đại
Dương.
Nguyễn Tiến Hưng
More reading |
|