Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Thường thì những người có danh, có chức mới viết hồi ký khi về già. Tôi chỉ là
một nhà giáo bình thường, chẳng có gì to lớn cả, nên chẳng bao giờ nghĩ đến việc
tự viết về mình. Tuy nhiên, qua bao năm sống còn, nghĩ lại mình cũng còn những
điều đáng nhớ nên mạo muội ghi lại.
Trong cuộc đời chúng ta, biết bao mốc thời gian, biết bao biến cố xảy ra, nhất
là những ai đã sống trong những ngày tàn khốc nhất trên đất nước Việt Nam trong
những năm khói lửa (1945-1975). Không nhắc tới những biến cố trên đất nước,
trong cuộc đời mình, một mốc thời gian quan trọng là lúc quyết định chọn nghề
sau khi rời mái trường trung học.
Thời niên thiếu của tôi (cuối thập niên 1950 và đầu 1960), không có cố vấn học
đường, cố vấn nghề nghiệp, và những tài liệu hướng dẫn về các ngành học ở đại
học cũng như các trường chuyên nghiệp như ngày nay ở các nước tiên tiến. Tài
liệu duy nhất mà chúng tôi biết là cuốn sách nhỏ “Đây Đại Học” do sinh viên công
giáo soạn và tái bản nhiều lần. Ở trường, các thày trẻ, mới ra trường, cũng là
những người hướng dẫn chúng tôi rất nhiệt tâm. Khi tôi học lớp đệ nhị ở trường
trung học Chu Văn An Sài Gòn (1961-1962), thày Phạm Xuân Lương, một thày giáo
trẻ, mới tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, coi chúng tôi như những đứa em, và hướng
dẫn chúng tôi rất nhiều. Đối với những kẻ con nhà nghèo như tôi, lời khuyên của
thày là nên học Đại Học Sư Phạm, vì thời gian học chỉ có bốn năm, lại có học
bổng (1500 đồng một tháng) có tí tiền tiêu xài, không cần xin cha mẹ. Vào thời
đó, đây là một số tiền lớn, vì lương công chức (thư ký phù động) khoảng trên
2000 đồng, lương chuẩn uý 2200 đồng ăn tô phở chỉ tốn 5 đồng, ly cà phê 2 đồng.
Từ đó tôi thấy con đường đi trước mắt: Đại Học Sư Phạm. Nhưng học môn gì? Tôi
học ban A, khoa học thực nghiệm, nên định học môn vạn vật, theo gót các thày
Nguyễn Văn Đỉnh (vị thày chuyên dạy ban A, với phương pháp thật dễ hiểu) và
Nguyễn Ngọc Quỳnh (người có hai bàn tay lả lướt thành những hình tuyệt đẹp như
những bức tranh của họa sĩ, mà khi thày xóa bảng, chúng tôi cứ tiếc). Đôi khi
thày Quỳnh biểu diễn bằng cả hai bàn tay với đủ lọai phấn màu. Ngoài ra, chúng
tôi có thể hỏi các anh chị của bạn bè, những người đi trước. Một người bạn tôi
có ông anh học rất giỏi, năm nào cũng lãnh phần thưởng là những chồng sách cao,
khi còn học Chu Văn An. Sau khi đậu tú tài, anh thi đậu vào trường Cao Đẳng Nông
Lâm Súc. Tôi rất mê ngành nông nghiệp mà anh đang học. Anh phải đi thực tập hàng
tháng trời, khi thì ở các đồn điền cao su Long Khánh, Bình Dương, khi thì ở các
đồn điền trà Bảo Lộc – Lâm Đồng. Đọc cuốn luận văn sau khi thực tập của anh
(Ngành trồng trà ở Bảo Lộc – Lâm Đồng), tôi rất thích. Nhưng tôi không thể mơ
tới trường này được, vì trong kỳ thi tuyển có bài toán ban B, còn bài vạn vật
trình độ ban A. Tôi học ban A thì làm sao làm nổi bài toán ban B.
Trường trung học Chu Văn An của tôi gần như là trường ban B. Thế mà tôi lại chọn
ban A. Lớp ban A của tôi tập trung những kẻ cùng thân phận như tôi (dốt hoặc sợ
môn toán), nhưng lại là nơi khởi đầu của nhiều bạn học giỏi đã chọn con đường
thật dài và sáng giá: y khoa đại học, để trở thành bác sĩ. Những người bạn thân
của tôi từ thời đệ thất đều khuyên và rủ tôi cùng vào APM (Année Préparatoire de
Medecine = dự bị y khoa) với họ. Nhưng hoàn cảnh của gia đình tôi quá eo hẹp, 7
năm học thật quá dài. Tôi đành chọn con đường ngắn hơn chút ít: nha khoa, chỉ
học 5 năm. Chó ngáp phải ruồi, tôi đậu (họ tuyển 30 ngưởi trong số 800 thí sinh
dự thi). Thế là tôi học dự bị nha khoa (APD = Année Prépatoire Dentaire) ở Đại
Học Khoa Học, kế bên Đại Học Sư Phạm.
Hơn 10 mạng ban A chúng tôi thi vào ban vạn vật Đại Học Sư Phạm, nhưng chỉ có
một đứa duy nhất đậu. Học ban A thì phải “tụng” vạn vật cho kỹ. Tôi thuộc cả đến
những chỗ xuống hàng và mọi hình vẽ trong cuốn sách dày cộm, thế mà vẫn ăn vỏ
chuối. Ban vạn vật thực là khó: khoảng 1000 thí sinh, trường Đại Học Sư Phạm chỉ
lấy có 15 người. Người bạn cùng lớp với tôi đậu được là do đâu? Có lẽ do tài
khéo tay của anh ta (vẽ thật đẹp như họa sĩ), và cũng do bài Anh văn nữa. Kỳ thi
có một bài vạn vật và bài Anh văn (dịch Anh - Việt).
Tôi học dự bị nha khoa, giờ rảnh thì cùng bạn bè lang thang khắp nơi: hầm MPC,
Đại Học Sư Phạm,... chờ giờ học sắp tới. Bỗng tôi thấy bên Đại Học Sư Phạm tấp
nập với những tà áo thướt tha. Đại Học Sư Phạm đang nhận đơn thi tuyển cho niên
khoá sắp tới. Tôi gặp lại bạn bè Chu Văn An cũ, đang học ở những Đại Học không
mấy chắc ăn (Khoa Học, Văn Khoa, Luật Khoa) cũng nộp đơn thi vào sư phạm cho
yên.
Người ta nộp đơn thì tôi cũng lấy bằng tú tài ra và điền đơn, đâu có mất mát gì.
Nhưng thi vào môn nào? Ban Vạn Vật thì tôi đã tiêu tùng từ năm trước, không dám
đụng đến nữa. Anh Văn và Việt Văn thì làm sao địch nổi bọn ban C. Thôi thì nộp
vào ban Sử Địa vậy, vô thưởng, vô phạt, ai cũng như ai. Đến ngày thi, tôi cũng
đi thi. Thế mà chó ngáp phải ruồi, tôi đậu, thứ hạng cũng khá cao trong 40 thí
sinh trúng tuyển, trong khoảng 1000 người dự thi. Bao nhiêu bạn bè của tôi đều
không thấy tên. Năm trước, khi thi vào ban Vạn Vật, tôi còn mở sách ra dò lại
bài. Chứ bây giờ, tôi đi chơi chứ có định học đâu mà ôn bài. Sau này, sau khi
học Sử Địa ở Đại Học Sư Phạm , tôi ngẫm nghĩ tại sao mình lại đậu? Tôi nhớ mang
máng đề thi lúc đó là: “ Tình hình thế giới giữa hai thế chiến”. Tôi đoán: khi
làm bài thi, tôi đã làm đúng phương pháp sử mà sau này tôi được học: phân tích,
tổng hợp, giải thích sự kiện. Đó là những ý niệm tôi rút ra khi học sử ở trung
học, khác với lối học thuộc lòng ngày, tháng, năm, tên vua này, vua nọ...chán
ngấy. Hồi đó, tôi không hài lòng về cách dạy Sử, Địa của vài thày khi còn học ở
những lớp dưới. Tôi nghĩ: bài như thế thì phải dạy học sinh thế này, thế kia,
chứ bắt học sinh học thuộc lòng thì còn gì hay nữa. Tôi đã nghĩ ra phương pháp
phản hồi đối với bài dạy, mà sau này, khi học sư phạm tôi mới được biết.
Sử, Địa ở trung học, bị coi là môn phụ, môn ăn chơi. Nhưng tôi lại thấy học Sử
như đọc truyện nên tôi nắm được những sự kiện chính, những mốc thời gian. Môn Sử
khiến cho con người tôi lúc thì nóng bừng lên, lúc thì giận tím gan (phản hồi).
Môn Sử tạo cho con người tinh thần yêu nước, yêu non sông, đất Việt. Còn Địa Lý,
tôi có cảm tưởng như mình được đi du lịch khắp năm châu bốn biển, biết được
nhiều nơi, nhiều dân tộc trên thế giới và rút ra những bài học cho đất nước
mình. Có lẽ Sử, Địa đã thấm vào trong tim óc tôi từ lâu, nên tôi đã làm bài thi
đúng phương pháp và may mắn thi đậu.
Trước ngày khai giảng ban Sử Địa, tôi coi thời khóa biểu niêm yết trước văn
phòng hành chánh, thấy giờ học cũng nhàn nhạ nên thử vào xem sao. Tôi cứ tưởng
sẽ được gặp các vị nổi tiếng trong lãnh vực Sử Địa như ông bà Tăng Xuân An, giáo
sư Phan Khoang, sử gia Phạm Văn Sơn,.... Nhưng trên thời khóa biểu chỉ thấy tên
các vị giáo sư mà trước kia tôi chưa hề nghe tiếng: Phạm Cao Dương, Phạm Đình
Tiếu, Lâm Thanh Liêm, Nguyễn Thế Anh... cả mấy ông Tây nữa (Teulières, Flamand).
Vị giáo sư đầu tiên mà tôi được gặp là giáo sư Phạm Cao Dương. Những giây phút
đầu tiên chúng tôi học với thày không phải là bài sử, mà là những lời hướng dẫn
cho chúng tôi con đường chúng tôi nên theo, nên làm. Theo thày, trong lãnh vực
Sử, Địa và văn hóa của người Việt Nam, còn rất nhiều điều mà người Việt Nam
chúng ta chưa nghiên cứu, chẳng hạn lịch sử mỹ thuật Việt Nam chưa có những công
trình nghiên cứu sâu xa. Còn sử Việt Nam, từ trước tới nay, người viết sử chỉ
nhìn dưới khía cạnh lịch sử chính trị, mà không nhìn dưới khía cạnh lịch sử văn
minh. Quả thực thật mới mẻ đối với tôi. Thày đã hé mở cho chúng tôi biết sử là
gì. Thày còn nhắc: mình không làm thì ai làm? Tôi nhớ lại, khi còn học ở trung
học, các thày tôi nhắc tới những công trình nghiên cứu văn hóa Việt Nam do người
Pháp thực hiện. Có những ông tây da trắng, mũi lõ ngồi hút thuốc lào cùng với
các bác nông dân trên bờ ruộng để tìm hiểu văn hóa Việt Nam. Người Pháp làm đựơc
thì tại sao mình không làm được? Vả lại họ nghiên cứu cách nay mấy chục năm rồi,
nước ta, dân ta đã có nhiều thay đổi. Những lời đầu tiên của giáo sư Phạm Cao
Dương khiến tôi suy nghĩ và cảm thấy hứng khởi. Giáo sư Phạm Cao Dương đã xoáy
vào tim bọn sinh viên mới bước chân vào đại học. Tôi thấy cũng hay. Mình sống,
làm được chút gì cũng vui. Dạy trung học chỉ có 16 giờ mỗi tuần, nghĩa là chỉ có
bốn buổi, còn quá nhiều thời giờ rảnh rỗi, mình có thể làm việc khác, tìm hiểu
về văn hóa, sử, địa của địa phương mình, và rộng ra của nước Việt Nam chúng ta.
Tôi tìm thấy nguồn vui. Những lời nói đầu tiên của Giáo sư Phạm Cao Dương khi
tôi bước chân vào Đại Học Sư Phạm của đã tạo nên bước ngoặt có tính cách quyết
định trong cuộc đời tôi.
Hôm sau, giáo sư Lâm Thanh Liêm cũng khuyến khích chúng tôi nên ghi danh học Sử
Địa ở Đại Học Văn Khoa và đi vào con đường nghiên cứu địa lý. Những lời tâm
huyết của thày là nguồn khích lệ lớn lao cho 40 lính mới chúng tôi: nửa lớp ghi
danh học năm dự bị ở Đại HọcVăn Khoa. Một số bạn không ghi danh ở Đại Học Văn
Khoa vì còn học tiếp bên Luật Khoa mà họ đã theo đuổi từ trước, hoặc bận bịu dạy
thêm ở trường tư, kiếm cơm nuôi gia đình.
Ngoài giáo sư Phạm Cao Dương, chúng tôi học với giáo sư Phạm Đình Tiếu. Thày
Phạm Đình Tiếu lôi cuốn chúng tôi với tính tình cởi mởi, gần gũi với học trò.
Phong cách thân mật vớí học trò, làm việc hăng say hết mình của thày đã thấm vào
con người chúng tôi. Sau này, khi ra trường, những nhà giáo chuyên về Sử Địa của
lớp chúng tôi thường lăn xả vào những sinh hoạt trong trường mà những người
chuyên dạy tư thường tránh né: tổ chức những sinh hoạt xã hội, trại du khảo,
trại công tác, đảm nhận chức vụ hiệu đoàn phó (hiệu trưởng là hiệu đoàn trưởng).
Có những bạn phải nhận chức vụ hiệu trưởng, giám học ngay từ năm đầu tiên nhận
nhiệm sở. Những sinh hoạt trong trường khiến đời sống trong trường học không chỉ
là phấn trắng, bảng đen, sách vở. Chính những sinh hoạt này tạo nên sự khắng
khít giữa thày, trò, trường, lớp mà không sách vở nào tạo nên được. Ngoài Sử Địa
và Việt Văn, có thày cô dạy môn nào đào tạo học sinh trở thành những người có
tâm hồn Việt Nam? Từ thế hệ chúng tôi, học sinh không còn nhìn ông thày Sử Địa
qua môn học hệ số 2, môn phụ. Sử Địa không còn là môn mà bất cứ ai cũng dạy
được.Trước kia, Sử Địa do những giáo chức không chuyên môn đảm nhận vì Đại Học
Sư Phạm chưa cung cấp đủ thày cô giáo. Còn chúng tôi do Đại Học Sư Phạm đào tạo
vững vàng về kiến thức chuyên môn, tự tin về khả năng sư phạm, lấy lại uy tín
cho bộ môn Sử Địa. Có những bạn cùng khóa chúng tôi đã “hớp hồn” học sinh: “Sau
này em sẽ học Đại Học Sư Phạm, môn Sử Địa, giống thày”. Không biết các bạn tôi
đúng hay sai? Khi “thôi miên” học sinh vào môn học mà nhiều người vẫn coi
thường, khiến học sinh không chọn những con đường khác, nghề khác là điều thiệt
thòi cho các em. Tương tự như thế, thày giáo trẻ mới ra trường khiến cô nữ sinh
nào đó bị say lòng, dù anh ta không tỏ bày hay làm điều gì trái với chức năng
của nhà giáo, cũng là điều đáng tiếc, vì nếu không gặp ông thày thần tượng của
em, biết đâu em chẳng gặp được chàng trai nào đó có chức, có danh hơn ông thày
tỉnh lẻ. Tuy nhiên, ông thày dạy Sử Địa tạo được ảnh hưởng đối với tương lai của
học sinh đã chứng tỏ sự thành công của nhà giáo.
Khi học với giáo sư Lâm Thanh Liêm về những môn địa hình thái học
(Géomorphologie) và bản đồ (Cartographie) tôi thấy hay. Khi học ở lớp đệ tam
(1960-1961), tôi thật uể oải với môn địa chất học mà tôi phải chịu đựng nhiều
giờ trong tuần, ban A mà. Nhưng nay, đất đá là những dạng cụ thể ở các địa hình,
trên đất nước Việt Nam và trên thế giới, là thực tế bên ngoài nhà trường, tôi
lại thấy gần gũi. Môn học này nhẹ nhàng đối với tôi. Giáo sư Lâm Thanh Liêm mới
từ Pháp về, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ đệ tam cấp ở đại học Sorbonne, Paris, một
trường đại học nổi danh.
Một môn mới lạ đối với những người mới bước chân vào lãnh vực chuyên môn về Sử
là môn Bình giảng sử liệu do giáo sư Nguyễn Thế Anh giảng dạy. Tôi thích thú với
môn này, vì những dữ kiện của quá khứ nói lên rất nhiều điều sống động, mình
khám phá ra biết bao điều đã chìm vào thời gian đã qua: xã hội, kinh tế, chính
trị, giải thích những biến cố từ sâu trong quá khứ.... Giáo sư Nguyễn Thế Anh
cũng mới từ Pháp về, với bằng thạc sĩ. Theo hệ thống giáo dục Pháp, người có văn
bằng thạc sĩ là giáo sư đại học thực thụ, chứ không phải thạc sĩ là tên gọi văn
bằng sau cử nhân như trong nước quy định như hiện nay.
Những ngày đầu bước chân vào Đại Học Sư Phạm khiến tôi thơ thới, hân hoan. Tôi
cùng các bạn cùng lớp sang ghi danh ở Đại Học Văn Khoa, nằm ở đường Nguyễn Trung
Trực (sau này là Giám Sát Viện và thư viện quốc gia). Đây là trung tâm thành phố
Sài Gòn, sát bên đường Lê Thánh Tôn, đi bộ vài trăm mét là tới đại lộ Lê Lợi,
nhà sách Khai Trí, kem Mai Hương, nước mía Viễn Đông, ... Sau giờ học, chúng tôi
có thể đi bát phố hoặc ngồi quán cà phê ngắm các bóng hồng thướt tha trên đường
Lê Lợi, hoặc ghé vào rạp xi nê khi có phim hay. Tôi ghi danh với mục đích vui
chơi nhiều hơn là học. Trường Đại Học Văn Khoa không có những đại giảng đường
khang trang như những đại học khác. Phòng học ở đây nằm trong những căn nhà bệ
rạc không thua gì khu “chuồng ngựa” trường Chu Văn An của tôi. Sinh viên dự bị
nhiệm ý Sử Địa phải học chung nhiều môn với các sinh viên chọn nhiệm ý khác, nên
lớp học nào cũng đông nghẹt. Các cô thường đi sớm dành chỗ cho nhau ở các hàng
ghế đầu giống như đi xem kịch vậy. Mặt mũi mình không thể tranh giành với các
bóng hồng, lại lười đi sớm, nên tôi thường ngồi phía sau lưng các bóng hồng,
hoặc đứng ngoài cửa sổ mà ngóng vào trong nghe giảng. Trường xập xệ như vậy,
nhưng thày trò không màng những thứ vật chất tầm thường trên thế gian và hướng
tới những cái hay, cái đẹp.
Tại Đại Học Văn Khoa, tôi thấy những môn học thật nhẹ nhàng, bay bướm. Cũng may,
thời khoá biểu ở Đại Học Văn Khoa và Đại Học Sư Phạm không trùng nhau nhiều nên
tôi có thể đi học được và không sợ bị mất bài. Nếu có trùng với Đại Học Sư Phạm
thì tôi mượn vở “lấy cua” của bạn bè.
Tôi không chủ đích học văn chương, nhưng những giáo sư văn chương khiến tôi thấy
đi học cũng thích thú. Nghe giáo sư Nguyễn Văn Trung nói chuyện về văn chương,
về nhà văn (Nhà văn, người là ai?) cũng hấp dẫn.
Còn mỗi buổi học với linh mục Thanh Lãng là một bài nói chuyện lý thú về văn
chương, không uổng công đứng mỏi chân ở ngoài cửa sổ ghi chép.
Văn chương ở đại học, dù chỉ ở cấp thấp nhất (năm dự bị) cũng khác với văn
chương tôi học ở trung học.
Tôi cũng phải học môn chữ Hán. Tưởng rằng thứ chữ này thật khó nuốt, nhưng giáo
sư Lưu Khôn đã thay đổi cách suy nghĩ của tôi. Với cách dạy của thày, tôi thấy
học loại chữ này không khó, nhưng mình phải bỏ thời gian với nó. Qua những bài
học đầu tiên, tôi nhận ra tính thâm thúy của người Tàu qua lối viết của họ. Sau
này tôi sẽ bỏ thời giờ nhiều hơn để học thứ chữ này để có khả năng đọc được
những bản văn cổ viết bằng chữ Hán.
Thế là ở Đại Học Văn Khoa, tôi cũng thấy học mà vui.
Sau khi ngao du ở cả hai trường Đại Học Sư Phạm và Đại Học Văn Khoa, tôi quyết
định “xin chọn nơi này làm quê hương”. Lý do là học ở những nơi này rất nhẹ
nhàng, không mệt nhọc như học Anatomie, Physique, Chimie, ... Đến trường lại
thấy mướt mắt, cuộc đời cũng có niềm vui. Tìm hiểu sâu xa về văn hóa dân tộc,
nghiên cứu về đất nước, lịch sử dân tộc mình cũng là nguồn vui. Sau này, khi học
ở Đại Học Văn Khoa, được dịp dự những buổi trình tiểu luận cao học (thời đó chưa
có tiến sĩ) hoặc tìm hiểu những đề tài nghiên cứu ở bậc cao học, tôi nhận ra đó
là những khám phá về đời sống của dân tộc mình.
Một lý do nữa khiến tôi chọn nghề dạy học là nhà giáo vẫn cón chút giá trị tinh
thần trong xã hội. Vào thời tôi, nhà giáo vẫn được quý trọng. Bạn bè tôi có anh
chị dạy học ở tỉnh cho biết thày cô giáo phải ăn uống trong tiệm đàng hoàng, chứ
không được ngồi ở các quán bên lề đường hay trong chợ. Nếu không phải là thày cô
giáo thì ăn uống ở đâu cũng chẳng ai để ý. Thày giáo mà giao du với cô nào thì
ngày hôm sau cả trường đều biết và xầm xì. Các anh sĩ quan cặp bồ với cô này, cô
nọ lại là chuyện thường. Tôi không muốn mọi người kính nể, cũng rất sợ được coi
là tấm gương cho mọi người, chỉ muốn nói rằng nhà giáo vẫn còn được xã hội quý
mến. 10 năm sau, xã hội thay đổi, danh dự của nhà giáo tuy có sứt mẻ, nhưng xã
hội vẫn nể vì những bậc thay mặt cha mẹ dạy dỗ con cái của họ.
Còn về vật chất thì ngành giáo được chính phủ ưu đãi hơn các công chức hạng A
khác: chỉ số lương của giáo sư trung học đệ nhị cấp mới vào nghề là 470, trong
khi tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh hoặc Cao Đẳng Nông Lâm Súc chỉ số lương là
430. Sinh viên Đại Học Sư Phạm được học bổng 1000 đồng mỗi tháng, trong khi sinh
viên trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc phải xin học bổng, nếu được chấp thuận thì
được 700 đồng mỗi tháng. Với tiền học bổng hàng tháng, tôi không cần phải xin
cha mẹ hoặc đi dạy kèm nữa. Bạn tôi ở tỉnh về Sài Gòn học, với số tiền học bổng
này, anh ta đủ trang trải tiền trọ và tiền ăn hàng tháng. Lương giáo sư trung
học đệ nhị cấp mới ra trường thời đó khoảng 9000 đồng mỗi tháng. Nếu dạy thêm
một số giờ (vì thiếu người dạy), lương sẽ trên 10 000 đồng / tháng. Đây là mức
lương rất cao (gấp 5 lần lương của thư ký). Với số lương này, tôi nghĩ cuộc sống
sẽ đầy đủ. Tôi không mong làm giàu, chỉ mong cuộc sống yên ổn, an nhàn.
Nếu tôi học xong nha khoa, làm sao tôi có được vài trăm ngàn đồng để mua máy làm
răng? Dược sĩ không có tiền mở nhà thuốc tây thì cho mướn bằng. Còn nha sĩ thì
không thể cho mướn bằng được. Thời đó, người mình chưa có thói quen đi khám răng
và điều trị ở nha sĩ. Khi đau răng hoặc làm răng giả thì người ta đến thợ trồng
răng.
Tôi đã quyết định bỏ Nha Khoa và theo học Đại Học Sư Phạm song song với Đại Học
Văn Khoa.Thế là dạy học là nghề và nghiệp của tôi. Tôi vui với học trò, vui với
việc nghiên cứu Sử Địa. Thế hệ chúng tôi chưa làm được việc gì to lớn cho đất
nước, nhưng rất vui vì đã đem hết khả năng của mình đào tạo mầm non cho đất
nước. Đất nước Việt Nam còn đau thương, còn chiến tranh, nhưng chúng tôi rất tự
tin vì đã được đào tạo thành những nhà giáo đầy đủ khả năng chuyên môn, đầy
nhiệt huyết để đào tạo thế hệ mai sau thành những người có lòng và có khả năng
xây dựng đất nước. Dù các môn Sử, Địa đòi hỏi tinh thần khách quan và khoa học,
nhưng qua những dữ kiện đó, lòng yêu nước vẫn nảy mầm trong học sinh và các em
không hổ thẹn là người Việt Nam. Song song với nghề nghiệp, một số chúng chúng
tôi tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu sâu rộng hơn trong những lãnh vực sử và địa.
Khi chúng tôi tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm thì một bạn đã trình tiểu luận cao học
Địa Lý và bốn người hoàn tất văn bằng cử nhân giáo khoa Sử Địa. Tới ngày
30-4-1975 thì:
Hai người hoàn tất văn bằng cử nhân giáo khoa Sử Địa. Hai anh này không học tiếp
lên cao học vì một anh say mê với các môn kinh tế ở Đại Học Luật Khoa. Còn anh
kia thì bận bịu với việc dạy học ở tỉnh nhà.
Một người hoàn tất cao học Sử, do giáo sư Nguyễn Thế Anh bảo trợ.
Hai người đậu cao học Địa Lý, do giáo sư Lâm Thanh Liêm bảo trợ. Hai người này
qua được năm thứ nhất chuyên khoa Địa Lý, chuẩn bị luận án tiến sĩ chuyên khoa
Địa Lý.
Ngày 30 tháng tư năm 1975 là một biến cố đau thương của toàn dân Việt Nam. Khi
nón cối, dép râu, nón tai bèo dẫm nát Sài Gòn, vào chiếm trường học, thì cuộc
đời đã chấm dứt. Thân phận chúng tôi là thân phận những kẻ chiến bại, những kẻ
được kẻ chiển thắng cho tạm dung. Chúng tôi bám lấy trường chỉ để bám lấy sự
sống cho gia đình, để khỏi bị tống ra ngoài thành phố mà người ta gọi là đi kinh
tế mới. Bọn con trai chúng tôi trong khóa 7 Đại Học Sư Phạm may mắn không phải
đi tù cải tạo, vì chúng tôi chỉ học quân sự 9 tuần, mang cấp bậc khóa sinh dự bị
sĩ quan. Các bạn từ khóa 6 trở về trước và khóa 8 trở về sau đều phải nếm mùi tù
cải tạo vì mang cấp bậc sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa, biệt phái.
Trong xã hội cộng sản, mình chỉ được nói những gì mà đảng cho nói, nói mà chẳng
ai tin, ngay cả chính mình. Những nhà giáo tạm dung như chúng tôi muốn yên thân
thì chấp nhận thân phận những con vẹt để sống cho qua ngày. Người bạn cùng lớp
với tôi dạy ở trường trung học Pétrus Ký (nay là Lê Hồng Phong) vạ mồm vạ miệng
nói trước lớp: “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”. Thế là đám học trò đoàn,
đảng báo cáo với ban giám hiệu và ngay ngày hôm sau, anh bị đuổi khỏi trường.
Khi mới tiếp xúc với cộng sản, anh ta chưa nhận ra được cách sống cho thích hợp.
Bản chất nhà giáo là sống chân thật nên khó xoay sở trong lúc tình thế nhiễu
nhương. Một số rất ít người lanh lợi tháo vát thì kiếm sống thêm trên đường phố:
buôn bán thuốc tây chui, quần áo cũ... Chúng tôi được đào tạo về cả Sử lẫn Địa,
nhưng họ chỉ định dạy một môn Sử, hoặc Địa. Sử của cộng sản là sử đảng, sử bác.
Khi Việt Cộng mới chiếm Sài Gòn, tôi muốn biết xem lối viết Sử của họ ra sao,
nên tìm cuốn Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam tập I để đọc. Ngay trang đầu là hình Hồ
Chí Minh to tổ bố. Vậy là gì? Hồ Chí Minh được đặt trước các bậc tổ tiên của dân
Việt , trước cả các vị anh hùng dân tộc như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ,... Sau đó
là lời nhắn nhủ của thủ tướng Phạm Văn Đồng: “ ... Các đồng chí phải chứng minh
cho được thời kỳ chiếm hữu nô lệ....” .
Như thế:
Thủ tướng Phạm Văn Đồng là nhà hành chánh, nhà chính trị, mà các người gọi là
nhà viết sử của chế độ phải tuân lệnh thì loại văn mà họ viết ra chỉ để vừa lòng
xếp, chứ không phải là kết quả của cuộc nghiên cứu khách quan.
Họ đặt cái cày đi trước con trâu, tìm con bò cho vừa cái chuồng. Chưa nghiên cứu
mà phải tìm cho được thời kỳ chiếm hữu nô lệ ở Việt Nam.
Cái gọi là “Sử” của cộng sản chỉ là một loại văn viết theo đơn đặt hàng của
đảng. Sau này mới biết những nhân vật lịch sử mà học sinh bị nhồi sọ như Phan
Đình Giót, Lê Văn Tám chỉ là những sản phẩm bịp bợm.
Những cuốn sách tái bản sau này của bộ Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam đã bỏ câu nói
của Phạm Văn Đồng, nhưng ảnh của Hồ Chí Minh thì vẫn vậy.
Dẫn chứng như trên, tôi muốn nói: đối với cộng sản, không có môn Sử, mà chỉ có
những lời tuyên truyền theo họ muốn.
Còn về Địa Lý? Làm sao mà dẫn chứng chủ nghĩa tư bản đang rẫy chết trong khi nền
kinh tế và trình độ khoa học kỹ thuật vượt bậc của họ không thể bịp được đứa con
nít? Lảm sao mà chứng minh: “Đồng hồ Liên Sô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ”? và phản
khoa học như: “Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ”?
Cái khổ của người trí thức không phải vì chầu chực để được nhận những hột bo bo,
con cá ươn, mớ rau thối... mà là nỗi nhục cho thân phận của mình, và nỗi đau cho
đất nước và dân tộc.
Người ta gọi ngày 30 tháng tư năm 1975 là ngày đứt phim, ngày đổi đời, ngày mất
nước, ngày quốc hận. Điều nào cũng đúng. Thân phận của mình mà còn không biết có
yên thân không thì còn nghĩ gì tới nghiên cứu. Nghiên cứu làm sao được khi tài
liệu không có. Tin tức, số liệu được công bố thì toàn là những bịa đặt. Tất cả
mọi thứ trong chế độ “ưu việt nhất của loài người” phải được đảng lãnh đạo. Đảng
có cần, có sai bảo thì mới được làm. Bọn nhà giáo gốc nguỵ, lý lịch ba đời đầy
rẫy những vết đen thì đảng cho yên thân là tốt lắm rồi, nói gì đến nghiêu cứu.
Tinh thần đâu mà nghiên cứu khi gia đình còn nheo nhóc, dạ dày còn lép xẹp.
Còn về mặt hành chánh, trường Đại Học Tổng Hợp (thay cho Đại Học Văn Khoa trước
kia) chỉ công nhận văn bằng cử nhân, chứ không công nhận văn bằng cao học. Cuộc
đời của nhiều người coi như đã chấm dứt từ cái ngày đen tối đó.
Vài lời ghi lại của một kẻ đã hết lòng với cả hai trường Đại Học Sư Phạm và Văn
Khoa Sài Gòn, nhân dịp Hội Ngộ 40 Năm Viễn Xứ, mà đường xa vạn dặm không thể tới
dự được.
Trần Thế Đức
(Úc, 28-8-2015)
Lớp Sử Địa ĐHSPSG, khóa 7 (1964-1968) (*)
(*) Từ trái sang phải: Trần Công Danh, Đinh Quốc Hùng, Nguyễn Minh Nhựt, Nguyễn
Thái, Nguyễn Hữu Năng, Ngô Minh Chí, Lê Công Hoàng, Tôn Thọ Giao.
Hàng trước: Phạm Thị Đức Hạnh, Trương Thị Ngọc Dung, Đặng Xuân Hường, Công Tằng
Tôn Nữ Cẩm Bàn
Hàng sau: Nguyễn Phước Chánh, Nguyễn Đình Hải (đứng sau NP Chánh), Trần Thế Đức,
Phạm Thế Hùng, Nguyễn Đình Thục, Nguyễn Đức Quảng, Quan Minh Hoàng, Âu Dương
Phát, Lê Hồng Liêm.
Vắng mặt: Nguyễn Văn Cẩm, Trần Văn Chi, Lưu Anh Dũng, Đinh Văn Đích, Huỳnh Tấn
Đó, Trần Thành Hân, Vũ Công Hiển, Cao Nguyên Lợi, Mai Ngọc Luông, Trần Đình
Quang, Đỗ Văn Quới, Nguyễn Nhựt Tấn, Nguyễn Văn Thới, Nguyễn Bá Thức, Trần Đình
Trọng, Trần Anh Tuấn, Võ Thị Ngọc Tuyền, Phan Văn Châu.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------